Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Quê hương. Giang Nam.(Ngâm thơ Vũ Kim Dung)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.

quê hương
Tác giả: Giang Nam
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Có những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh bờ ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên có ai ngờ!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...

Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Tôi lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Rồi hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động cách mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Bài thơ là câu chuyện tình từ thủa tuổi thơ của hai người hàng xóm. Đôi trẻ lớn lên, tình yêu trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kỳ kháng chiến. Từ buổi “Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc” đến “Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi” để rồi cuối cùng “Hôm nay nhận được tin em”. Song, dù em mất nhưng tình yêu không mất bởi tâm hồn và thể xác em đã hóa thân vào với đất nước, quê hương….
Bài thơ được tác giả viết năm 1960 khi nhận được thông tin vợ và con ông bị giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Song thật may đây là nhầm lẫn. Vợ và con ông đã được thả năm 1962 do địch không tìm ra căn cứ để kết tội. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Nhà thơ Giang Nam.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, Nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông lại ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã.

thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…


Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Qua đèo Ngang( bà huyện Thanh Quan- Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Bài Qua đèo Ngang( bà huyện Thanh Quan- Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết)
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Qua Đèo Ngang
Tác giả: Bà Huyện Thanh Quan
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
"Qua đèo Ngang" là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ở thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam.Với phong cách trang nhã, bài thơ "Qua đèo ngang" cho thấy cảnh tượng Đèo ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thê hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả.
Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài "Qua đèo Ngang". Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà thương nước của một người con hiến mình cho tổ quốc. Lần đầu nữ sĩ "bước tới Đèo Ngang", đứng dưới chân con đèo "đệ nhất hùng quan" này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm "bóng xế tà", lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã "tà", đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm "tà" cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ "chen", vần lưng: "đá" – "lá", vần chân: "tà" – "hoa", thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước.
Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?
Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?



Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trưức cảnh tình quê hương..ỗ

Phân tích bài thơ rồi, em hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp em thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Em cảm thấy vững vàng trong tư tưởng và có những suy nghĩ tích cực hơn góp phần xây dựng quê hương đất nước Việt Nam thêm giàu đẹp, để giữ mãi được những dấu tích mà người xưa để lại như gửi gắm, nhắc nhở và trao gởi cho chúng em.

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần "a" như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người,nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.



Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

Những năm anh đi .Tuệ Sĩ (Ngâm thơ giọng ngâm của Bạch Hạc)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Những năm anh đi .Tuệ Sĩ (Ngâm thơ giọng ngâm của Bạch Hạc)
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Những Năm Anh Đi
Tác giả: Tuệ Sỹ
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng,
Nhìn Quê hương qua chứng tích điêu tàn.
Triều đông hải vẫn thì thầm cát trắng:
Truyện tình người và nhịp thở của Trường sơn.

Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị,
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng.
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ,
Ðời lênh đên thu cánh nhỏ bên đường.

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối,
Tìm Quê hương trên vết máu giữa đồng hoang.
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi,
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu,
Trên vai gầy từ thủa dựng Quê hương;
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu,
Bản tình ca vô tận của Ðông phương.

Và ngày ấy anh trở về phố cũ,
Giữa con đường còn rợp khói tang thương,
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
Vài nết về tác giả:Cuộc đời của Thượng Tọa Tuệ Sỹ, thật tương tự cuộc đời vua Trần Nhân Tông (1258-1308) thấm nhuần Phật Giáo ngay từ thuở thiếu thời, tham hiểu Thiền định dưới sự dạy bảo của Tuệ Trung Thượng Sĩ (bút hiệu Tuệ Sỹ Thầy tự đặt lấy để kính ngưỡng Ngài là Thiền Sư nhà Trần). Năm 36 tuổi, Điều Ngự Giác Hoàng nhường ngôi cho Trần Anh Tông ; xuất gia năm 41 tuổi và viên tịch tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử năm 1308, hưởng thọ 51 tuổi…

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Nhật ký trong tù .Ngâm thơ NSUT Trần thị Tuyết


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Nhật ký trong tù Ngâm thơ NSUT Trần thị Tuyết.
Chúc quý vị có nhứng phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Nhật ký trong tù (nguyên văn chữ Hán: 獄中日記 - Hán-Việt: Ngục trung nhật ký) là một tác phẩm văn học gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943[1]. Tập thơ chỉ là một quyển sổ tay nhỏ, bìa xanh đã bạc màu, có ghi bốn chữ "Ngục trung nhật ký" (tức Nhật ký trong tù) kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích; bên trong là những bài thơ chữ Hán và một số ghi chép. Từ năm 1960, tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt, được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay đã được xuất bản nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm "Ngục trung Nhật ký"
Tập thơ "Nhật ký trong tù" đã được một số nhà phê bình đánh giá. Theo BBC, không chỉ các tác giả Việt Nam và phương Tây mà ngay chính các nhân vật của Trung Quốc - quê hương của thơ chữ Hán - như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng, Hoàng Tranh đều ca ngợi tập thơ này..

Xuân Diệu có viết: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễ là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó... Người xưa nói: "Đối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau... Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc của Lê nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường..

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Thơ Nguyễn Duy


Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Thơ Nguyễn Duy.Chúc quý vị có nhứng phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ...
Tác giả: Nguyễn Duy
Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò ... sung chát đào chua ...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta -- chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương

Saigon, Mùa thu 1986

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

Ngâm thơ Nhớ con sông quê hương. Thơ Tế Hanh


Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Ngâm thơ Nhớ con sông quê hương .Thơ Tế Hanh.
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
Hình ảnh cô em đôi má ửng hồng...
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng "miền Nam"
Tôi nhớ không nguôi ánh sáng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết...
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không gành thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương
Phân tích bài thơ
Quê hương! Tiếng gọi sao mà thiêng liêng, thân thiết quá! Mỗi khi nhắc đến tình cảm quê hương trong lòng ta chợt cảm thấy bồi hồi xao xuyến. Nhất là đối với những kẻ xa quê thì mối tình quê hương ấy càng thêm đong đầy, cháy bỏng. Dường như hình ảnh dòng sông, con đò, xóm chợ, rặng dừa...lúc nào cùng hiện hữu trong lòng.
Cũng như bao nhiêu người xa quê khác, Tế Hanh cũng mang nỗi nhớ ấy trong tâm. Từ nơi đất Bắc xa xôi, tác giả đã để lòng mình hướng về dòng sông quê yêu dấu. Và những lời thơ tha thiết mặn nồng lại cất lên trong bài "Nhớ con sông quê hương".
Chúng ta hãy cùng đến với dòng sông quê hương trong hồi ức của tác giả:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi bóng những hàng tre
Tâm hồn tôi Ta một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu với người đọc về con sông xanh biếc nơi quê mình. Con sông ấy đã gắn liền với ký ức tuổi thơ của Tế Hanh. Dòng sông xanh biếc, với "nước gương trong" đang soi tóc những "hàng tre". Một khung cảnh thật nên thơ, hữu tình. Chính nghệ thuật nhân hóa "hàng tre sợi tóc" làm cho dòng sông bỗng đẹp hơn, sinh động hẳn lên. Và tâm hồn nhà thơ như là "buổi trưa hè" tỏa ánh nắng chói chang nhất của mình để tô đẹp cho dòng sông. Nét độc đáo ở đây là nhà thơ đã so sánh tâm hồn mình như ánh sáng của trưa hè để tạo vẻ "lấp loáng" cho dòng sông.
Từ nơi phương xa, Tế Hanh gửi bài thơ của mình đến với con sông quê thủ thi tâm tình:
Chẳng biết nuớc có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm của dòng đời
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ.
Nhà thơ đang băn khoăn tự hỏi, thể hiện cả nỗi nhớ nhung da diết. Con sông ấy là con sông của quê hương, con sông của tuổi trẻ. Nó đã tắm cả đời tác giả, cho nên sông với người tình cảm mặn nồng lắm, không bao giờ phai, không bao giờ cũ, lúc nào cũng là "mối tình mới mé". Từ nơi nhà con sông quê, trong lòng nhà thơ lại dâng lên nỗi nhớ cả miền Nam yêu dấu. Sự nhớ nhung ấy đi từ cụ thể đến cái khái quát cao hơn "Sông của quê hượng, sông của tuổi thơ" và giờ lại là "sông của miền Nam nước Việt thân yêu". Khổ thơ sử dụng cậu hỏi tu từ, điệp ngữ để khắc họa nỗi niềm nhớ nhung của tác giả khiến ta bồn chồn xúc động.
Cả một khoảng trời tuổi thơ lại hiện về. Trên con sông kia đã in dấu biết bao kỉ niệm:
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non bơi lội trên sông.
Đó là những thú vui đùa, nghịch ngợm trên sông. Bạn bè tụm năm, tụm bảy trong những buổi trưa hè. Hình ảnh đảo ngữ, cách nói ẩn dụ giúp ta liên tưởng được sự thân thiết gần gủi của tác giả với con sông quê. Và sự gắn bó tình cảm thân thiết ấy lại đuợc diễn đạt trong hai câu thơ độc đáo:
Tới giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ.
Đó là mối tình nồng đối với con sông, nghệ thuật nhân hóa cùng phép đối trong hai câu thơ đã diễn tả được điều ấy. "Tôi ôm nước - nước ôm tôi" thật là không thể gì tách rời được. Đến lúc trưởng thành bạn bè chia tay mỗi người một ngả, tác giả lại phải đi theo tiếng gọi của non sông "Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến". Vì nhiệm vụ thiêng liêng phải lên đường chống giặc xa quê, nhưng trong tận đáy lòng nhà thơ vân giữ mãi hình ánh dòng sông xưa:
Nhưng lòng tôi như mua người gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông.
Xa quê hương đã lâu, nên nỗi nhớ càng trở nên da diết và thành thiêng liêng. Nỗi nhớ ấy luôn ở trong sâu thẳm trái tim tác giả.
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng miền Nam
Nhớ quê hương, tác giả nhớ từ cái quen thuộc bình thường, ánh sáng sắc trời, những người không quen biết.
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết.
Những từ ngữ "nhớ không nguôi", "quên sao được", "nhớ cả" đã diễn tả được nỗi nhớ nhung tha thiết trong lòng nhà thơ mọi lúc một tăng dần. Và trung tâm nỗi nhớ ấy vẫn là hình ảnh dòng sông quê hương. Dòng sông ấy luôn hiện ra tuôn chảy dạt dào như tươi mát trong mình.
Lai láng chảy lòng tôi như suối tươi
Quê hương ơi ! Lòng tôi cũng như sóng.
Tiếng gọi "quê hương ơi !" Xụât phát từ lòng nhớ thương của Tế Hanh sao mà tha thiết quá ! Chính từ niềm thương nổi nhớ ấy mà tác giả như có thêm sức mạnh niềm tin mãnh liệt sẽ trở về quê hương, trở về với dòng sông yêu dấu.
Tôi sẽ lại lòng tôi hằng mơ ược
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương
Xen lẫn vào nỗi nhớ là cả một sự hi vọng vì ngày mai của nhà thơ. Ngày đất nước thống nhất, ngày được trở lại với dòng sông quê hương. Điệp ngữ "tôi sẽ" được lặp lại trong ba câu cuối của bài đã thể hiện mạnh mẽ niềm tin và sự quyết tâm của tác giả. Có lẽ đây cũng là ước vọng của tất cả những ai đã vì đất nước mà phải xa lìa nơi chôn nhau cắt rốn của minh. "Tôi sẽ, tôi sẽ" lặp lại như một điệp khúc của nỗi nhớ nhung tràn đầy niềm hi vọng. Bài thơ đã kết thúc mà âm hưởng của từng lời thơ, tâm tình của người làm thơ vẫn không dứt. Vẫn "ương" trong hai câu cuối vẫn cứ kéo dài, ngân vang mãi mối tình nồng đượm đối với quê hương của tác giả.
Bài thơ với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết, giọng thơ ngân vang kéo dài như diễn tả một tình cảm lai láng tràn đầy không bao giờ dứt. Ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, Tế Hanh đã trang trải lòng mình đối với quê hương. Nhà thơ đã có nhiều lần xa quê và có nhiều lần nhớ quê. Nhưng nỗi nhớ con sông quê lại mang cả nỗi nhớ miền Nam cùng sự quyết tâm giải phóng quê nhà, thống nhất đất nước. Nỗi nhớ trong sự chia cắt ấy nó sâu đậm làm sao !
Đây là một bài thơ đặc sắc của Tế Hanh. Đọc bài thơ ta không khỏi bồi hồi xúc động nhớ về một thời đã qua. Có những kỹ niệm vì chiến tranh phải xa quê luôn hoài vọng về quê mình với tấm lòng tha thiết nhất. Dẫu hôm nay chúng ta đã sống trong cảnh đất nước thanh bình, tác giả đã biến ước mơ thành hiện thực, nhưng mỗi lần có dịp đọc lại bài thơ ta cũng không khỏi xao xuyến trong lòng. Ta như muốn cùng tác giả hòa vào từng lời thơ để được sống lại những ký ức tuổi thơ bên dòng sông quê hương yêu dấu.

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016

Nắng Cố đô .thơ Phùng Quán Ngâm thơ Minh Phúc


Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Nắng Cố đô .thơ Phùng Quán Ngâm thơ Minh Phúc.
Phùng Quán (1932–1995) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc chiến tranh Đông Dương và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới.
Phùng Quán sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.

Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Quân đội).

Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Về quá trình viết tác phẩm này, trong di cảo hồi ký "Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào" do Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một người lính trở thành một nhà văn và những oan khuất phải gánh chịu nhưng với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm bằng hai bài thơ "Lời mẹ dặn" và "Chống tham ô lãng phí" (1957). Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, ra khỏi quân đội, sau đó mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi.

Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác và câu cá ở Hồ Tây để kiếm sống. Vì thế, bạn bè văn nghệ thường gói gọn cuộc đời ông thời kỳ này bằng sáu chữ: "cá trộm, rượu chịu, văn chui".
Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Hoa sen, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe. Vợ ông là nhà giáo Vũ Thị Bội Trâm, giảng dạy tại Trường PTTH Chu Văn An (Hà nội).

Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội. Năm 2010, sau khi vợ ông mất, thể theo nguyện vọng của ông lúc sinh thời, gia đình và bạn bè đã đưa hài cốt ông bà về án táng tại quê nhà: xã Thủy Dương, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 2007, Phùng Quán được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm.

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

Mùa xuân chín.thơ: Hàn Mặc Tử .Ngâm thơ :NSUT Trần Thị Tuyết


Mùa xuân chín
Hàn Mặc Tử
Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý - Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Làng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- "Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.

Bình giảng bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.
Đây là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng.
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa xuân xanh"... và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta... Gió cũng chọn áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước... như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu châ'm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà th ơ thì mùa xuân ào đến:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi".
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên - Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)... Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây".
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây", lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai..." dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ ngây...".
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân "đang chín" dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
"Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi... Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín... "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua - Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín...". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
"Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một không gian cụ thể: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
"Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
Mùa xuân chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực nhớ... " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"...




Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

Mẹ tôi .Thơ Lưu Thế Quyền .Ngâm thơ Nghệ sĩ Vương Hà



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Mẹ tôi .Thơ Lưu Thế Quyền .Ngâm thơ Nghệ sĩ Vương Hà.

MẸ TÔI

Kính dâng Mẹ

--------------------------------Thơ: Lưu Thế Quyền



Con sinh ra giữa cuộc đời

Mẹ lo cả những bồi hồi giấc mơ

Thế mà con cũng chẳng ngờ

Gian truân đến vậy, bây giờ không đâu.



Chiêm mùa mấy bận mưa Ngâu

Mẹ teo tóp với nông sâu đất làng

Bay về mây trắng giăng ngang

Mẹ mang kim chỉ thời gian nối mùa.



Tháng đôi lần Mẹ lên chùa

Cầu mong con mãi vẫn chưa thấy gì

Mẹ ngồi nhẩm tính, có khi

Cơn mưa nào đến Mẹ đi một mình…



Thời gian thì cứ lặng thinh

Mẹ tôi vẫn ngắm bình minh đợi ngày.



( Rút trong tập TÌNH YÊU KHÔNG CÓ DẠI KHỜ -NXB VĂN HỌC -2014)


Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Lỡ bước sang ngang(trích thơ Nguyễn Bính) Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Lỡ bước sang ngang(trích thơ Nguyễn Bính) Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết.

 Em ơi! em ở lại nhà

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương

Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi một bước trăm đường xót xa

Cậy em, em ở lại nhà

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương



Hôm nay xác pháo đầy đường

Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng

Chuyến này chị bước sang ngang

Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây

Rượu hồng em uống cho say

Vui cùng chị một vài giây cuối cùng

Rồi đây sóng gió ngang sông

Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ

Miếu thiêng vụng kén người thờ

Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em

Đêm qua là trắng ba đêm

Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn

Một vai gánh lấy giang san...

Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương

Mắt quầng tóc rối tơ vương

Em còn cho chị lược gương làm gì!

Một lần này bước ra đi

Là không hẹn một lần về nữa đâu

Cách mấy mươi con sông sâu

Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh

Cũng là thôi cũng là đành

Sang sông lỡ bước riêng mình chị sao?

Tuổi son nhạt thắm phai đào

Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người!

Em đừng khóc nữa em ơi!

Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em!

Một đi bảy nổi ba chìm

Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần

Dù em thương chị mười phần

Cũng không ngăn nổi một lần chị đi

Chị tôi nước mắt đằm đìa

Chào hai họ để đi về nhà ai

Mẹ trông theo, mẹ thở dài

Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran

Tôi ra đứng tận đầu làng

Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa...

Trời mưa ướt áo làm gì?

Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng

Người ta pháo đỏ rượu hồng

Mà trên hồn chị một vòng hoa tang

Lần đầu chị bước sang ngang

Tuổi son sông nước đò giang chưa tường

Ở nhà em nhớ mẹ thương

Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ

Mẹ ngồi bên cửi xe tơ

Thời thường nhắc: "- Chị mày giờ ra sao?"

Chị bây giờ... nói thế nào?

Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang

Chị từ lỡ bước sang ngang

Trời dông bão giữa tràng giang lật thuyền

Xuôi dòng nước chảy liên miên

Đưa thân thế chị tới miền đau thương

Mười năm gối hận bên giường

Mười năm nước mắt bữa thường thay canh

Mười năm đưa đám một mình

Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên

Mười năm lòng lạnh như tiền

Tim đi hết máu mà duyên không về

Nhưng em ơi! một đêm hè

Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn

Dừng chân trên bến sông buồn

Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang

Đoái thương thân chị lỡ làng

Đoái thương phận chị dở dang những ngày

Rồi... rồi chị nói sao đây?

Em ơi! nói nhỏ câu này với em...

Thế rồi máu trở về tim

Duyên làm lành chị duyên tìm về môi

Chị nay lòng ấm lại rồi

Mối tình chết đã có người hồi sinh

Chị từ dan díu với tình

Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng

Tim ai khắc một chữ "nàng"

Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo

Nhưng yêu chỉ để mà yêu

Chị còn dám ước một điều gì hơn ...

Chị giờ sống cũng bằng không

Coi như chị đã ngang sông đắm đò.

      Nguyễn Bính (1918-1966) làm thơ từ năm 13 tuổi, bài thơ đầu tiên của ông được đăng báo là bài "Cô hái mơ". Năm 1937, Nguyễn Bính đã được Tự lực văn đoàn trao giải thưởng cho tập thơ "Tâm hồn tôi" của ông. Trong khoảng thời gian ba năm, ông đã cho ra đời 7 tập thơ như "Tâm hồn tôi" (1940), "Hương cố nhân (1941)" "Người con gái ở lầu hoa" (1942), "Mười hai bến nước" (1942), "Mây Tần" (1942) và tác phẩm được chú ý nhất là "Lỡ bước sang ngang" (1939)…


Màu tím hoa sim. Ngâm thơ. (Thơ Hữu Loan)



Nàng
có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh



Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới



Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê...



Nhưng không chết

người trai khói lửa

Mà chết

người gái nhỏ hậu phương

Tôi về

không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

thành bình hương

tàn lạnh vây quanh



Tóc nàng xanh xanh

ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

không được nghe nhau nói

không được trông nhau một lần



Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

một mình đèn khuya

bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

ngày xưa...



Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về

cỏ vàng chân mộ chí



Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau

Chiều hoang tím có chiều hoang biết

Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm

Tím tình ơi lệ ứa

Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành

Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn

Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím

Tôi ví vọng về đâu

Tôi với vọng về đâu

Áo anh nát chỉ dù lâu...
                                                (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
        Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản
gốc. Bài thơ này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh
Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân...
         Vợ tác giả tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái cụ Lê Đỗ Kỳ. Lê Đỗ Kỳ cùng
công tác tại Uỷ ban tỉnh Thanh Hoá sau Cách mạng tháng Tám với Hữu Loan. Cụ Kỳ
nguyên là Chánh Thanh tra Lâm nghiệp toàn Đông Dương. Cụ Kỳ có nhiều con trai
là sỹ quan quân đội Nhân dân VN nổi tiếng: Con trai cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh
tại Điện Biên Phủ 5 tiếng đồng hồ trước khi quân ta cắm cờ trên sở chỉ huy của
Pháp. Tiếp đó là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Hồng Cư. Em ông Cư là Lê Đỗ An,
tức Nguyễn Tiên Phong, sau là Bí thư Trung ương Đoàn TNCS HCM. Em ông Nguyên là
Đại tá Lê Đỗ Thái. Hai ông Hồng Cư và Lê Đỗ Thái hiện sống ở Hà Nội và đều lấy
con gái GS. Đặng Thai Mai.
                                                                                  Nguồn: Màu tím hoa sim, NXB Văn học, 1990
         Đến nay, Màu tím hoa sim được xem là một trong những
bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi
một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít
độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.
         Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu
thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu
Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một
chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những
qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi
trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên
60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công
bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: “Tôi hát trong màu hoa.
Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu”
chứ không có
thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...”
ở cuối bài như sau này.
         So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy
ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến
người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm
vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có
những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm
quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng
biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim
trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay
"nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.
          Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối.
Các anh của "nàng", theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực
ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi
Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên
Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn
biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn
nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má
tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”
. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác
bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: “ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một
người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm
chiến tranh”
. Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.
                                                                                                             Nguồn: báo Thanh Niên



Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

Khúc Sông Mê .Ngâm thơ Thơ Trần Đại



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Khúc Sông Mê  .Ngâm thơ Thơ Trần Đại.

Khúc sông Mê

Tác giả: Trần Đại - Trandaik

Em nói rằng em chửa có chồng

Tôi chèo ghe nhỏ ngược giòng sông

Nhà em hôm ấy đông người quá

Họ tới tiễn em...đi lấy chồng.



Bao năm tình có cũng như không

gặp nhau em nói ... đã bỏ chồng

tôi về sắm sửa sang lần nữa

chẳng dè em lại bước sang sông



Buồn tình tôi dạm hỏi cho xong

không thương, ở mãi, sẽ mặn nồng!

bất ngờ nghe duyên em ... trắc trở

tôi đành bỏ cưới bởi người mơ



Cũng vì mẹ mất nên em hoãn

rồi hẹn cùng tôi đợi mãn tang

tôi về mấy bữa chưa đầy tháng

lại nghe em đã ... có bạn vàng



Về bán thuyền ghe cúng chữ thề

"suốt đời quên hẳn khúc sông mê"

thề ... "chẳng bao giờ sang bên ấy”

Nếu chẳng ai thương...ở một mình



Hôm nay dưới bến ... đưa tin

rằng em bên ấy ... cuộc tình (lại) dở dang



Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

Kết nạp Đảng trên quê mẹ Ngâm thơ



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài thơ Kết nạp Đảng trên quê mẹ- Sáng tác: Chế Lan Viên.NSND Châu Loan ngâm .

Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời

Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!

Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?

Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm

Trong buổi đầu, ta theo Đảng đi lên



Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác

Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt

Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?

Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn

Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết!

Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu, tha thiết

Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn

Trong mơ hồ, trăm tiếng của quê hương



Tiếng mẹ bảo bên tai: "Con hãy nhớ

Bà con quê ta đói nghèo lam lũ

cuộc sống xưa như nước chảy mất dòng

Không ai thương như cỏ nội giữa đồng

Con chim bỏ trời quê ta đi xứ khác

Đất chẳng nuôi người, người không nuôi nổi đất

Chiếc khăn xanh mẹ bịt ở trên đầu

Đã từng che hai thứ tóc buồn đau

Mẹ trông ở đời con... Con hãy gắng

Con đi đi... Từ nay con có Đảng"

Tôi nhìn ra thấy máu thịt quê hương

Như đang dâng thành núi lại thành cồn

Ôi gió Lào ơi! ngươi đừng thổi nữa

Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ

Những đồi sim không đủ quả nuôi người

Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười

Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng

Của đồn giặc mấy năm trời chiếm đóng



Đảng kính yêu! Tôi tìm Đảng giữa nơi này

Như chờ vang tiếng sét xé trời mây...



Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ

Phút mơ ước, sao thiếu hình bóng mẹ?

Giặc bao vây ngăn lối chặn đường

Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương!

Mẹ ơi! mẹ không là đồng chí

Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ

Đời khổ đau mẹ đứng dưới cờ này

Mẹ đói nghèo, hàng ngũ bên con đây

Mẹ xem, con mặc áo nâu sồng xưa mẹ mặc

Mai con hát khúc bình dân xưa mẹ hát

Đảng mến yêu, có phải mẹ giới thiệu con vào?

Từ buổi dạy con lòng thương ghét ban đầu

Tự quê mẹ nghèo, tự đời mẹ khổ

Tự giọt lệ khóc tù đi biệt xứ

Tự nắm cơm khô đưa cán bộ thoát làng

Từ tiếng thét căm thù vì giặc giã, vua quan

Tưởng như cả quê hương giới thiệu tôi vào Đảng

Rẫy bắp, vườn tiêu, bờ tre, bãi sắn

Những đồi tranh ăn độc gió Lào

Cả trại tù Lao Bảo chốn rừng sâu

Ôi tiếng đầu tiên gọi ta "đồng chí"

Là tíeng quê hương ấm lành Quảng Trị

Những đảng viên đầu tiên đứng sát bên tôi

Là bạn thuở nhi đồng áo vá cơm khoai



Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên thệ

Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ

Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu

Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau



Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002

A
i
cũng có một miền quê thân thương nơi sinh ra và lớn lên ở đó. Cũng có
khi đó là cái gốc, là cội nguồn gia đình, gia tộc để từ đó ra đi và
trưởng thành.
Trong
những năm đánh Mỹ, do hoàn cảnh tạm thời chia cắt, nhiều nhà văn tập
kết miền Nam, đã phải xa cách quê nhà. Tưởng hai năm mà đằng đẵng gấp
mười lần thế.
Đây cũng là thời nổi lên trong văn học, một dòng thơ văn - tạm gọi là thơ văn đấu tranh thống nhất. Tế Hanh nổi tiếng với Con sông quê hương, Xuân Diệu day dứt một nỗi niềm Nhớ quê Nam trong đó có sông Gò Bồi, có tháp Chàm Bình Định…, còn Tố Hữu có Quê mẹ là tiếng hát của tình thương yêu, tôn vinh người mẹ gắn kết máu thịt với quê hương và cách mạng.
Chế
Lan Viên cũng là nhà thơ miền Nam, có quê Nam. Bởi Quảng Trị và Bình
Định nằm ở phía bên kia giới tuyến. Thực ra là hai quê hương nhưng tạm ở
một miền. Tiểu sử ghi ông sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị. Đến năm 1927 gia
đình chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Theo dòng sáng tác, Chế Lan Viên
được coi là người viết sớm nhất cho dòng văn học đấu tranh thống nhất: Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952) được in trong Gửi các anh.
Điều
đặc biệt với Chế Lan Viên là quê hương sinh thành cũng là vùng quê sáng
tác. Nơi đó là dấu ấn sâu đậm cuộc đời mà cũng là mảnh tâm hồn thắm
thiết trong đời thơ. Ngay cả ở Hội An, một đô thị cổ, nơi Chế Lan Viên
đã có ít tuổi thơ ở đó (sáu, bảy tuổi), mà cũng sâu nặng tình yêu Hội
An Chẳng là quê/ Mà là hương khổ thế! (Hội An"Hương chùa hay hương tóc" đã quyện thành "hương người", "hương quê".
       ***
Quảng Trị, Bình Định, hai miền quê hương ruột thịt nổi lên như mảnh hồn thơ sáng láng Chế Lan Viên.
Thực
ra Quảng Trị chỉ là quê hương thuở ấu thơ. Nhưng sau này, đây lại là
địa bàn hoạt động của chàng thanh niên yêu nước sôi nổi trong kháng
chiến. Ở chiến trường Bình Trị Thiên, tính ác liệt lại như tăng gấp bội
vì là vùng đất nghèo sỏi đá trong vùng kìm kẹp của kẻ địch. Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952)
là những giọt nước mắt lặn vào bên trong, nhớ thương bà mẹ đẻ cũng là
bà mẹ chiến sĩ. Bài thơ thành thật cảm động khiến người đọc chảy nước
mắt.
Nay mẹ bị cầm chân nơi đất giặc
Bốn phía là gươm, bốn bề là sắt
Mẹ mến thương ơi! Con mẹ đây rồi!
Nhưng mắt con không khóc nữa
Chừ có khóc cũng khóc thành ra lửa
Có ngã đau cũng dậy cho mẹ cười
Con sống hiên ngang và nếu chết sẽ nên đời.
Thương mẹ, nhớ quê, hẹn ngày kháng chiến thành công: Con sẽ lại khóc ròng / mẹ sẽ thương hơn.
Kết nạp Đảng trên quê mẹ là
bài thơ đặc sắc, nặng tình, nặng nghĩa. Hình và tình cùng chói sáng lên
một lúc, tình cảm và trí tuệ được đốt cháy đồng thời để thành ngọn lửa
thơ toả sáng. Cả một vùng quê, một miền đất từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến
Bình - Trị - Thiên được tái hiện bằng ngôn từ bình dị, hình ảnh mộc mạc
mà rất hiện thực. Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ Những đồi
sim không đủ quả nuôi người/ Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười. Chỉ
tiếng gió mù trời chen tiếng súng… 
Gió Lào như đốt nóng thêm cả vùng
lửa bỏng và gan ruột nhà thơ. Quê hương đói nghèo, gian khó nhưng anh
dũng. Bài thơ được dựng bằng kỷ niệm, hồi ức và liên tưởng suy tư. Nhà
thơ tưởng tượng đau đớn! Tôi nhìn ra thấy máu thịt quê hương/ Như đang dâng thành núi, dựng thành cồn. Con người đã từ trong đau thương ấy mà vùng lên. Nhà thơ được kết nạp Đảng ngay Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ. Cái
hay của bài thơ là sự kết hợp tuyệt đẹp riêng và chung trong tâm hồn
thơ. Có những hình tượng bản thân là loại hình tượng kép: Mẹ - Quê hương, Mẹ - Đồng chí … Mẹ không là đồng chí/ Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ và cao hơn cả: Mẹ - Đảng.
Tôi đứng dưới cờ đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau.
Tình
mẫu tử thiêng liêng, tình quê hương sâu nặng, tình Đảng cao quý như
quyện chặt lấy nhau. Nghĩ về mẹ cùng lúc nghĩ đến quê hương và Đảng hay
chu trình ngược lại đều là những con đường của tình cảm và trí tuệ gắn
bó. Bài thơ đã tổng kết một quá trình tư tưởng cách mạng, khái quát một
triết lý sâu sắc về lẽ sống và lý tưởng cùng với đúc kết lại một hành
trình tình cảm đạo lý. Sự từng trải trên quê hương từ những năm đầu
kháng chiến đã tạo nên tự hào, vinh dự cho đứa con thân yêu: Ơi kháng
chiến! Mười năm qua như ngọn lửa / Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường/
Con đã đi nhưng còn vượt nữa/ Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương 
(Tiếng hát con tàu).
Quê hương Quy Nhơn - Bình Định lại là nguồn kỷ niệm thân thương, tha thiết nữa, nhưng quan trọng đó là cái nôi cho một thi tài.
Chính
ở Quy Nhơn mà Chế Lan Viên đã viết bài thơ đầu tiên, ra tập thơ đầu
tiên. Nhưng biết bao cảnh, bao người, bao sự việc đã giúp Chế Lan Viên
nên người, nên văn ở đấy. "Theo tôi nghĩ thì những cái xa văn, ngoài văn
có khi mở đầu cho việc yêu văn". Cũng theo Chế Lan Viên, ngoài việc lấy
văn nuôi văn là chuyện khác, bàn sau, còn "Cái chỉ là thơ thôi, giết
chết thơ" như một nhà thơ nước ngoài đã nói như vậy. Và đây là hoàn cảnh
độc đáo và sức mạnh truyền cảm tạo hồn thơ cho Chế Lan Viên .
"Cho
tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lỵ
An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định - Diêu Trì; biết ơn
bờ biển Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và những rừng dừa từng rợp bóng lên tôi.
Cành dừa cao say sưa ôm bóng ngủ, chính là dừa ấy chứ còn đâu?"
Làm
thơ phải có chữ nghĩa - tất nhiên - nhưng rất cần là một không gian văn
hoá. Đó là vùng đất từng lẫy lừng Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang
Trung. Lòng yêu nước mơ hồ qua nỗi đau mất nước ở Điêu tàn cũng bắt nguồn từ đấy. Có những cảnh - tình được nhà thơ phân tích từ rất xa: "Chả
lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà lá mái, cửa bàn
khoa Bình Định, hay cái vòng quay kiên trì, triền miên của các xe nước
ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ. Nhưng quả là những
đêm hát bội ở An Vinh, các cuộc đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất
hùng tráng"… "Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc
đổ giàn thượng võ này?".
 Những câu thơ đánh Mỹ ?... Kinh Đại tạng xé theo súng 12 ly 7 … Những năm chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương … Mặt Phật không cười cùng hoa sen nữa thực ra đó là sự biến hoá yếu tố thần bí … "trong tiếng tụng kinh trước bàn thờ phật" của ông bố và "tầm ngân vang của chuông nhà thờ đạo Kim Châu" gần nhà. Chế Lan Viên đã truyền cái kinh nghiệm giản đơn mà sâu sắc: "Làm thơ chỉ biết có thơ thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hoá nữa" (Bước đầu của tôi).
Sau
này, Chế Lan Viên còn nhiều dịp nhớ lại vùng quê hương này của mình
nhưng với những tình cảm suy tư đã có nhiều đổi khác. Có gì như day dứt
hơn trong hoài niệm, lại có gì ngỡ ngàng trong hồi tưởng và không kìm
nén được những hy vọng thiết tha, những trầm tư, suy nghiệm mang ý vị
triết lý đời người và cả đời thơ.
Những năm nao còn là tưởng vọng và hy vọng về mẹ, về quê và con đường thống nhấtChắp đường Nam Bắc con thăm mẹ. Vẫn tấm lòng quê vời vợi suốt bao nhiêu năm xa cách (Hoa quê mình, Nhớ tuổi thơ…)
Ngày thống nhất về lại thăm quê bao tình cảm vui buồn xáo trộn: nhớ,
thương, mừng tủi, ngỡ ngàng như vừa quen vừa lạ, đã gần lại hoá xa nhất
là nhớ về mẹ, nhớ về bạn cũ, trường xưa. Có nghịch cảnh trớ trêu. Nỗi
vui đoàn tụ và nỗi đau chiến tranh, mất mát chung và thiệt thòi bản
thân. Một đời xa cách mẹ, miếng ngon qua miệng nhưng nước mắt chan cơm:
Ừ thế đó một đời xa cách mẹ
Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm
Mẹ mất, bạn thiếu thời chẳng còn ai Nền nhà nay dựng có quan mới. Tâm
trạng thấy vật đổi sao dời là của muôn năm. Tứ thơ có cái gì giống với
Nguyễn Du khi trở về Thăng Long than thở khi thấy nhà lớn đã biến thành
đường cái, lại hao hao với cảm giác Hồi hương ngẫu thư  của Hạ Tri Chương với những câu mở đầu tương tự Khi đi trẻ, lúc về già và Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi.(Trở lại An Nhơn). Nhưng cảnh cũ đã mất  lại gây nghịch cảm trong lòng: Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có
lẽ xa xót nhất, đau đớn nhất trong tâm tư Chế Lan Viên là nỗi nhớ
thương mẹ và cũng là lòng ngưỡng mộ bà mẹ dân dã mà cao cả. Ấy là bà mẹ
hiện hình từ trong Đêm giao thừa (Bình Định - 1937) mà sau này chỉ còn
là di ảnh trong hoài niệm của nhà thơ rất nhiều lần, suốt đời người Gửi
mẹ trong vùng giặc chiếm (Gửi các anh) Mẹ (Ánh sáng và phù sa), Chiêm
bao gặp mẹ, Vườn mẹ không hoa, Cây mai vườn thống nhất (Đối thoại mới),
Canh cá tràu (Hái theo mùa), Mẹ dân dã (Ta gửi cho mình) 
và những bài trong Di cảo thơ II, III, Thăm mộ mẹ, Hái trên trời…
Bởi vì hình ảnh Mẹ đã quấn quyện với Quê hương và Đất nước từ lâu trong hồn thơ tha thiết thảo hiền đằm thắm Chế Lan Viên.
Một thời là
bài thơ nói hoàn chỉnh về nỗi niềm nhớ quê hương và người thân của Chế
Lan Viên, xuất hiện vào những năm cuối đời (khoảng 1987 - 1988). Mở đầu
là Những trưa hè… Nhớ thành Bình Định xưa, căn nhà im phăng phắc… và sau đó là cảnh gia đình cha, mẹ và các anh chịCòn tôi thả hồn lên những đầu cây/ Chờ thơ và đón bắt… Thế mà bây giờ, thật đau xót: Nay mộ mẹ ở Đông Hà, mộ cha trên núi/ Mộ chị Ba ở rừng cao su sẩm tối/ Chị Tư heo hút một mình…Nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật Thời gian không thể hoá thành dòng sông chảy ngược/ Cho ta về với những ngày…
Chế
Lan Viên đau đáu một đời với quê hương với gia đình, người thân, với mẹ
già sống đau khổ nhẫn nại và bền bỉ dũng cảm ở vùng quê. Đó là một tình
cảm tự nhiên tha thiết và nhân hậu, thuỷ chung một đời. Thơ về quê - cả
hai vùng - đều thắm thiết cho đến tận trước khi từ giã cõi đời này. Bởi
đó là máu thịt của hồn thơ, là sự thể hiện bằng lời hay, ý đẹp một tình
cảm cao quý, thiêng liêng của con người biết sống trọn tình, vẹn nghĩa.
(*) Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
(Những ngôi nhà đồ sộ ngày xưa, nay thành đường cái
Một dãy thành mới làm mất dấu vết cung điện cũ)















































Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2016

Hát thơ Việt Bắc thơ Tố Hữu Vũ Huy Dự



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Hát thơ  Việt Bắc thơ Tố Hữu   Vũ Huy Dự.Xem thêm tại : http://tiengthovietnam.blogspot.com/

Việt Bắc thơ Tố Hữu

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?



- Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...



- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?



- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...



Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa...



Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.



Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.



Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.



Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...



Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.....

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

Hai sắc hoa Ti gon .Ngâm thơ . Tho TTKH Hoang Oanh

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Hai sắc hoa Ti gon  .Ngâm thơ . Tho TTKH   Hoang Oanh.

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn 
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn, 
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc, 
Tôi chờ người đến với yêu đương. 

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng 
Dải đường xa vút bóng chiều phong, 
Và phương trời thẳm mờ sương, cát, 
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng. 

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi, 
Thở dài trong lúc thấy tôi vui, 
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ, 
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!” 

Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì 
Cánh hoa tan tác của sinh ly, 
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng 
Là chút lòng trong chẳng biến suy” 

Đâu biết lần đi một lỡ làng, 
Dưới trời đau khổ chết yêu đương. 
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm, 
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường... 

Từ đấy, thu rồi, thu lại thu, 
Lòng tôi còn giá đến bao giờ 
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ... 
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ. 

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời 
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi, 
Mà từng thu chết, từng thu chết, 
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”. 

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết 
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa 
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ. 
Và đỏ như màu máu thắm pha! 

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi 
Một mùa thu trước rất xa xôi... 
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã, 
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi! 

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ, 
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu 
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng, 
Người ấy sang sông đứng ngóng đò. 

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, 
Trời ơi! Người ấy có buồn không? 
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ 
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Đất Nước -Ngâm thơ (Châu Loan ngâm )

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài thơ Đất nước -Sáng tác: Nguyễn Đình Thi  Ngâm thơ: Châu Loan

Sáng mát trong như sáng năm xưa 
Gió thổi mùa thu hương cốm mới 
Tôi nhớ những ngày thu đã xa 
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội 
Những phố dài xao xác hơi may 
Người ra đi đầu không ngoảnh lại 
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. 

Mùa thu nay khác rồi 
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi 
Gió thổi rừng tre phấp phới 
Trời thu thay áo mới 
Trong biếc nói cười thiết tha! 
Trời xanh đây là của chúng ta 
Núi rừng đây là của chúng ta 
Những cánh đồng thơm mát 
Những ngả đường bát ngát 
Những dòng sông đỏ nặng phù sa 

Nước chúng ta 
Nước những người chưa bao giờ khuất 
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất 
Những buổi ngày xưa vọng nói về! 
Ôi những cánh đồng quê chảy máu 
Dây thép gai đâm nát trời chiều 
Những đêm dài hành quân nung nấu 
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. 
Từ những năm đau thương chiến đấu 
Ðã ngời lên nét mặt quê hương 
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu 
Ðã bật lên những tiếng căm hờn 

Bát cơm chan đầy nước mắt 
Bay còn giằng khỏi miệng ta 
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất 
Ðứa đè cổ, đứa lột da... 

Xiềng xích chúng bay không khoá được 
Trời đầy chim và đất đầy hoa 
Súng đạn chúng bay không bắn được 
Lòng dân ta yêu nước thương nhà! 

Khói nhà máy cuộn trong sương núi 
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng 
Ôm đất nước những người áo vải 
Ðã đứng lên thành những anh hùng. 

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội 
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh 
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới 
Lòng ta bát ngát ánh bình minh. 

Súng nổ rung trời giận dữ 
Người lên như nước vỡ bờ 
Nước Việt Nam từ máu lửa 
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Chút tình riêng gửi Huế Thu Hương ngâm thơ

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Chút tình riêng gửi Huế Thu Hương ngâm thơ

Chén Rượu Vô Thường Vàng Xương Lá Mục Ngâm thơ

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Chén Rượu Vô Thường   Vàng Xương Lá Mục Ngâm thơ.

                               Chén Rượu Vô Thường
Tác giả: Trần Đại 
Đêm nay
rót rượu một mình
một mình ta uống, một mình ta say
Ngoài kia.
một mảnh trăng gầy
thẹn thùng chẳng dám vào đây chuyện trò

Được thôi
say
ngủ một mình
một giường một chiếu, chỉ mình ta thôi
Liêu trai
một bóng ma ngồi
chờ ma men sỉn, thành đôi nhân tình

Nâng ly
tính sổ nhân sinh
ta thay Thượng Đế giải trình "Nhân-Gian"
tình vị tha
hận lỡ làng
tình kia vị kỷ gây ngàn khổ đau

Ngà say
hỏi đấng Vô-Thường
tình yêu, tình ái, tình thương làm gì?
tình trong nhân thế mà chi?
về hư vô
thiếu tình si ...chán chường ?

Say rồi
nhớ chuyện phục-sinh
mai này sống lại ... có tình em không ?
Thiên Đường nếu có chờ mong
thì tình em đấy còn nồng như xưa?

Đêm nay
ngẫm lại đời mình
sống trong nhân thế mà hình như không
Tình ta
như biển mênh mông
mà em
hạt muối
làm nồng đại dương

Câu lục bát đánh rơi Ngâm thơ Tác giả thơ Nguyễn ĐÌnh Vinh

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Câu lục bát đánh rơi Ngâm thơ  Tác giả thơ Nguyễn ĐÌnh Vinh

Tôi đi nhặt chút nắng tôi
Nhặt câu lục bát đánh rơi thủơ nào
 
Câu lục rớt ở cầu ao
Để cho câu bát chìm vào ven sông
 
Nắng thơm rớt tận cánh đồng
Câu thơ ướt sũng mà không kịp về
 
Câu lục trôi dạt ven đê
Mẹ tôi vớt cả câu thề để hong
 
Tháng hai lúa trỗ đòng đòng
Câu thương vấn vít nỗi mong đợi người
 
Yếm đào ngượng mụ còn tươi
Môi hường chúm chím em cười làm duyên
 
Câu thơ vướng phải mạn thuyền
Bỗng ai ném cả dấu huyền cho tôi
 
Câu lục bát vớt được rồi
Dường như nghe thấy đất trời tơ vương

Cách mạng.Chế Lan Viên. Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Cách mạng.Chế Lan Viên. Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết

Cách mạng Thơ: Chế Lan Viên ngâm : NSUT Trần Thị Tuyết.
Tên thật là: Phan Ngọc Hoan
            Bút danh khác: Thạch Hãn, Chàng Văn.
            Quê quán: Cam An - Cam Lộ- Quảng Trị. Thời trai trẻ chủ yếu sống ở Quy Nhơn - Bình Định. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
            Cách mạng tháng Tám thành công, Chế Lan Viên đến với cách mạng bằng sự hăng hái nhiệt tình của tuổi trẻ. Ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của Mặt trận Việt minh, báo Cứu quốc, Kháng chiến của liên khu IV. Năm 1949 Chế Lan Viên được kết nạp vào Đảng.
            Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở Phòng Văn nghệ, Ban tuyên huấn Trung Ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học. Từ năm 1963  ông là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
            Từ sau năm 1975, ông chuyển vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh và qua đời tại đó vào ngày 19 -  6 - 1989.
            Ông để lại cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ :
            - Trước Cách mạng tháng Tám :
                        + Thơ : Điêu tàn (1937)
                        + Văn xuôi :  Vàng sao (1942  )
            - Sau Cách mạng tháng Tám :
                        + Thơ : Gửi các anh (1955), Aùnh sáng và phù sa ( 1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Ngày vĩ đại (1975), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986), Di cảo thơ I ( 1992), Di cảo thơ II ( 1993), Di cảo thơ III ( 1996).
                        + Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Thăm Trung Quốc (1963), Những ngày nổi giận (1966), Nói chuyện văn thơ (1960), Phê bình văn học ( 1962), Vào nghề (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971), Bay theo đường dân tộc đang bay (1977), Từ gác khuê văn đến quán Trung Tân ( 1981), Nghĩ cạnh dòng thơ ( 1982), Ngoại vi thơ (1987).
 Có thể nói, cả cuộc đời mình, Chế Lan Viên gắn bó với Tổ quốc, có nỗi đau xót xa trước cảnh Điêu tàn và bao niềm vui khi cuộc đời rực rỡ phù sa. Cuộc sống cách mạng đã giúp Chế Lan Viên “Bay theo đường dân tộc đang bay”, tạo điều kiện thuận lợi để ông phát huy được tài năng, đóng góp lớn cho kho tàng văn chương của dân tộc.  
Hỡi ai đi lên phía trước chớ quên sau lưng mình cái hang Pắc Bó 
Đi tận cùng năm tháng không quên 
Đi khuất lấp vẫn còn nhớ mãi 
Đi muôn xa còn quay lại ngoái nhìn. 

Qua Điện Biên, Ấp Bắc đừng quên 
Vượt sông Hồng, sông Cửu không quên 
Đong mùa vàng năm tấn, nào quên 
Gặt vạn ngày thắng Mỹ, không quên. 

Cả nước mắt, hang này là độc lập 
Thay non sông đón Bác buổi ban đầu 
Rừng hiền hậu suối khe chất phác 
Lịch sử lấy nơi này làm đất chôn rau 

Dù muôn trùng còn cách mũi Cà Mau 
Một tấc đất đã là Tổ quốc 
Nay có trong tay trời Nam bể Bắc 
Dám đâu quên hang nhỏ thuở ban đầu

Những bóng người trên sân ga.Thơ Nguyễn Bính Ngâm thơ Hoang Oanh

Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bóng người trên sân ga Thơ Nguyễn Bính Ngâm thơ Hoàng Oanh

Những cuộc chia lìa khởi tự đây 
Cây đàn sum họp đứt từng dây 
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc 
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày. 

Có lần tôi thấy hai cô gái 
Sát má vào nhau khóc sụt sùi 
Hai bóng chung lưng thành một bóng 
"Đường về nhà chị chắc xa xôi?" 

Có lần tôi thấy một người yêu 
Tiễn một người yêu một buổi chiều 
Ở một ga nào xa vắng lắm 
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu. 

Hai người bạn cũ tiễn chân nhau 
Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu 
Họ giục nhau về ba bốn bận 
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu. 

Có lần tôi thấy vợ chồng ai 
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài 
Chị mở khăn giầu anh thắt lại: 
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!" 

Có lần tôi thấy một bà già 
Đưa tiễn con đi trấn ải xa 
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng 
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga 

Có lần tôi thấy một người đi 
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì 
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ 
Một mình làm cả cuộc phân ly. 

Những chiếc khăn màu thổn thức bay 
Những bàn tay vẫy những bàn tay 
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt, 
Buồn ở đâu hơn ở chốn này? 

Tôi đã từng chờ những chuyến xe 
Đã từng đưa đón kẻ đi về 
Sao nhà ga ấy sân ga ấy 
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?
                        Hà Nội, 1937