Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Quê hương. Giang Nam.(Ngâm thơ Vũ Kim Dung)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.

quê hương
Tác giả: Giang Nam
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Có những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh bờ ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên có ai ngờ!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...

Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Tôi lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Rồi hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động cách mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Bài thơ là câu chuyện tình từ thủa tuổi thơ của hai người hàng xóm. Đôi trẻ lớn lên, tình yêu trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kỳ kháng chiến. Từ buổi “Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc” đến “Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi” để rồi cuối cùng “Hôm nay nhận được tin em”. Song, dù em mất nhưng tình yêu không mất bởi tâm hồn và thể xác em đã hóa thân vào với đất nước, quê hương….
Bài thơ được tác giả viết năm 1960 khi nhận được thông tin vợ và con ông bị giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Song thật may đây là nhầm lẫn. Vợ và con ông đã được thả năm 1962 do địch không tìm ra căn cứ để kết tội. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Nhà thơ Giang Nam.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, Nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông lại ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã.

thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét