Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016
Khúc Sông Mê .Ngâm thơ Thơ Trần Đại
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Khúc Sông Mê .Ngâm thơ Thơ Trần Đại.
Khúc sông Mê
Tác giả: Trần Đại - Trandaik
Em nói rằng em chửa có chồng
Tôi chèo ghe nhỏ ngược giòng sông
Nhà em hôm ấy đông người quá
Họ tới tiễn em...đi lấy chồng.
Bao năm tình có cũng như không
gặp nhau em nói ... đã bỏ chồng
tôi về sắm sửa sang lần nữa
chẳng dè em lại bước sang sông
Buồn tình tôi dạm hỏi cho xong
không thương, ở mãi, sẽ mặn nồng!
bất ngờ nghe duyên em ... trắc trở
tôi đành bỏ cưới bởi người mơ
Cũng vì mẹ mất nên em hoãn
rồi hẹn cùng tôi đợi mãn tang
tôi về mấy bữa chưa đầy tháng
lại nghe em đã ... có bạn vàng
Về bán thuyền ghe cúng chữ thề
"suốt đời quên hẳn khúc sông mê"
thề ... "chẳng bao giờ sang bên ấy”
Nếu chẳng ai thương...ở một mình
Hôm nay dưới bến ... đưa tin
rằng em bên ấy ... cuộc tình (lại) dở dang
Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016
Kết nạp Đảng trên quê mẹ Ngâm thơ
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài thơ Kết nạp Đảng trên quê mẹ- Sáng tác: Chế Lan Viên.NSND Châu Loan ngâm .
Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời
Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!
Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?
Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm
Trong buổi đầu, ta theo Đảng đi lên
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết!
Tôi cúi đầu nghe, dặt dìu, tha thiết
Cây cỏ trời mây, kẻ mất người còn
Trong mơ hồ, trăm tiếng của quê hương
Tiếng mẹ bảo bên tai: "Con hãy nhớ
Bà con quê ta đói nghèo lam lũ
cuộc sống xưa như nước chảy mất dòng
Không ai thương như cỏ nội giữa đồng
Con chim bỏ trời quê ta đi xứ khác
Đất chẳng nuôi người, người không nuôi nổi đất
Chiếc khăn xanh mẹ bịt ở trên đầu
Đã từng che hai thứ tóc buồn đau
Mẹ trông ở đời con... Con hãy gắng
Con đi đi... Từ nay con có Đảng"
Tôi nhìn ra thấy máu thịt quê hương
Như đang dâng thành núi lại thành cồn
Ôi gió Lào ơi! ngươi đừng thổi nữa
Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ
Những đồi sim không đủ quả nuôi người
Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười
Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng
Của đồn giặc mấy năm trời chiếm đóng
Đảng kính yêu! Tôi tìm Đảng giữa nơi này
Như chờ vang tiếng sét xé trời mây...
Tôi đứng trước Đảng kỳ, rưng mắt lệ
Phút mơ ước, sao thiếu hình bóng mẹ?
Giặc bao vây ngăn lối chặn đường
Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương!
Mẹ ơi! mẹ không là đồng chí
Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ
Đời khổ đau mẹ đứng dưới cờ này
Mẹ đói nghèo, hàng ngũ bên con đây
Mẹ xem, con mặc áo nâu sồng xưa mẹ mặc
Mai con hát khúc bình dân xưa mẹ hát
Đảng mến yêu, có phải mẹ giới thiệu con vào?
Từ buổi dạy con lòng thương ghét ban đầu
Tự quê mẹ nghèo, tự đời mẹ khổ
Tự giọt lệ khóc tù đi biệt xứ
Tự nắm cơm khô đưa cán bộ thoát làng
Từ tiếng thét căm thù vì giặc giã, vua quan
Tưởng như cả quê hương giới thiệu tôi vào Đảng
Rẫy bắp, vườn tiêu, bờ tre, bãi sắn
Những đồi tranh ăn độc gió Lào
Cả trại tù Lao Bảo chốn rừng sâu
Ôi tiếng đầu tiên gọi ta "đồng chí"
Là tíeng quê hương ấm lành Quảng Trị
Những đảng viên đầu tiên đứng sát bên tôi
Là bạn thuở nhi đồng áo vá cơm khoai
Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau
Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002
A |
i
cũng có một miền quê thân thương nơi sinh ra và lớn lên ở đó. Cũng có
khi đó là cái gốc, là cội nguồn gia đình, gia tộc để từ đó ra đi và
trưởng thành.
cũng có một miền quê thân thương nơi sinh ra và lớn lên ở đó. Cũng có
khi đó là cái gốc, là cội nguồn gia đình, gia tộc để từ đó ra đi và
trưởng thành.
Trong
những năm đánh Mỹ, do hoàn cảnh tạm thời chia cắt, nhiều nhà văn tập
kết miền Nam, đã phải xa cách quê nhà. Tưởng hai năm mà đằng đẵng gấp
mười lần thế.
những năm đánh Mỹ, do hoàn cảnh tạm thời chia cắt, nhiều nhà văn tập
kết miền Nam, đã phải xa cách quê nhà. Tưởng hai năm mà đằng đẵng gấp
mười lần thế.
Đây cũng là thời nổi lên trong văn học, một dòng thơ văn - tạm gọi là thơ văn đấu tranh thống nhất. Tế Hanh nổi tiếng với Con sông quê hương, Xuân Diệu day dứt một nỗi niềm Nhớ quê Nam trong đó có sông Gò Bồi, có tháp Chàm Bình Định…, còn Tố Hữu có Quê mẹ là tiếng hát của tình thương yêu, tôn vinh người mẹ gắn kết máu thịt với quê hương và cách mạng.
Chế
Lan Viên cũng là nhà thơ miền Nam, có quê Nam. Bởi Quảng Trị và Bình
Định nằm ở phía bên kia giới tuyến. Thực ra là hai quê hương nhưng tạm ở
một miền. Tiểu sử ghi ông sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị. Đến năm 1927 gia
đình chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Theo dòng sáng tác, Chế Lan Viên
được coi là người viết sớm nhất cho dòng văn học đấu tranh thống nhất: Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952) được in trong Gửi các anh.
Lan Viên cũng là nhà thơ miền Nam, có quê Nam. Bởi Quảng Trị và Bình
Định nằm ở phía bên kia giới tuyến. Thực ra là hai quê hương nhưng tạm ở
một miền. Tiểu sử ghi ông sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị. Đến năm 1927 gia
đình chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Theo dòng sáng tác, Chế Lan Viên
được coi là người viết sớm nhất cho dòng văn học đấu tranh thống nhất: Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952) được in trong Gửi các anh.
Điều
đặc biệt với Chế Lan Viên là quê hương sinh thành cũng là vùng quê sáng
tác. Nơi đó là dấu ấn sâu đậm cuộc đời mà cũng là mảnh tâm hồn thắm
thiết trong đời thơ. Ngay cả ở Hội An, một đô thị cổ, nơi Chế Lan Viên
đã có ít tuổi thơ ở đó (sáu, bảy tuổi), mà cũng sâu nặng tình yêu Hội
An Chẳng là quê/ Mà là hương khổ thế! (Hội An) "Hương chùa hay hương tóc" đã quyện thành "hương người", "hương quê".
đặc biệt với Chế Lan Viên là quê hương sinh thành cũng là vùng quê sáng
tác. Nơi đó là dấu ấn sâu đậm cuộc đời mà cũng là mảnh tâm hồn thắm
thiết trong đời thơ. Ngay cả ở Hội An, một đô thị cổ, nơi Chế Lan Viên
đã có ít tuổi thơ ở đó (sáu, bảy tuổi), mà cũng sâu nặng tình yêu Hội
An Chẳng là quê/ Mà là hương khổ thế! (Hội An) "Hương chùa hay hương tóc" đã quyện thành "hương người", "hương quê".
***
Quảng Trị, Bình Định, hai miền quê hương ruột thịt nổi lên như mảnh hồn thơ sáng láng Chế Lan Viên.
Thực
ra Quảng Trị chỉ là quê hương thuở ấu thơ. Nhưng sau này, đây lại là
địa bàn hoạt động của chàng thanh niên yêu nước sôi nổi trong kháng
chiến. Ở chiến trường Bình Trị Thiên, tính ác liệt lại như tăng gấp bội
vì là vùng đất nghèo sỏi đá trong vùng kìm kẹp của kẻ địch. Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952)
là những giọt nước mắt lặn vào bên trong, nhớ thương bà mẹ đẻ cũng là
bà mẹ chiến sĩ. Bài thơ thành thật cảm động khiến người đọc chảy nước
mắt.
ra Quảng Trị chỉ là quê hương thuở ấu thơ. Nhưng sau này, đây lại là
địa bàn hoạt động của chàng thanh niên yêu nước sôi nổi trong kháng
chiến. Ở chiến trường Bình Trị Thiên, tính ác liệt lại như tăng gấp bội
vì là vùng đất nghèo sỏi đá trong vùng kìm kẹp của kẻ địch. Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952)
là những giọt nước mắt lặn vào bên trong, nhớ thương bà mẹ đẻ cũng là
bà mẹ chiến sĩ. Bài thơ thành thật cảm động khiến người đọc chảy nước
mắt.
Nay mẹ bị cầm chân nơi đất giặc
Bốn phía là gươm, bốn bề là sắt
Mẹ mến thương ơi! Con mẹ đây rồi!
Nhưng mắt con không khóc nữa
Chừ có khóc cũng khóc thành ra lửa
Có ngã đau cũng dậy cho mẹ cười
Con sống hiên ngang và nếu chết sẽ nên đời.
Thương mẹ, nhớ quê, hẹn ngày kháng chiến thành công: Con sẽ lại khóc ròng / mẹ sẽ thương hơn.
Kết nạp Đảng trên quê mẹ là
bài thơ đặc sắc, nặng tình, nặng nghĩa. Hình và tình cùng chói sáng lên
một lúc, tình cảm và trí tuệ được đốt cháy đồng thời để thành ngọn lửa
thơ toả sáng. Cả một vùng quê, một miền đất từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến
Bình - Trị - Thiên được tái hiện bằng ngôn từ bình dị, hình ảnh mộc mạc
mà rất hiện thực. Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ Những đồi
sim không đủ quả nuôi người/ Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười. Chỉ
tiếng gió mù trời chen tiếng súng… Gió Lào như đốt nóng thêm cả vùng
lửa bỏng và gan ruột nhà thơ. Quê hương đói nghèo, gian khó nhưng anh
dũng. Bài thơ được dựng bằng kỷ niệm, hồi ức và liên tưởng suy tư. Nhà
thơ tưởng tượng đau đớn! Tôi nhìn ra thấy máu thịt quê hương/ Như đang dâng thành núi, dựng thành cồn. Con người đã từ trong đau thương ấy mà vùng lên. Nhà thơ được kết nạp Đảng ngay Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ. Cái
hay của bài thơ là sự kết hợp tuyệt đẹp riêng và chung trong tâm hồn
thơ. Có những hình tượng bản thân là loại hình tượng kép: Mẹ - Quê hương, Mẹ - Đồng chí … Mẹ không là đồng chí/ Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ và cao hơn cả: Mẹ - Đảng.
bài thơ đặc sắc, nặng tình, nặng nghĩa. Hình và tình cùng chói sáng lên
một lúc, tình cảm và trí tuệ được đốt cháy đồng thời để thành ngọn lửa
thơ toả sáng. Cả một vùng quê, một miền đất từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến
Bình - Trị - Thiên được tái hiện bằng ngôn từ bình dị, hình ảnh mộc mạc
mà rất hiện thực. Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ Những đồi
sim không đủ quả nuôi người/ Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười. Chỉ
tiếng gió mù trời chen tiếng súng… Gió Lào như đốt nóng thêm cả vùng
lửa bỏng và gan ruột nhà thơ. Quê hương đói nghèo, gian khó nhưng anh
dũng. Bài thơ được dựng bằng kỷ niệm, hồi ức và liên tưởng suy tư. Nhà
thơ tưởng tượng đau đớn! Tôi nhìn ra thấy máu thịt quê hương/ Như đang dâng thành núi, dựng thành cồn. Con người đã từ trong đau thương ấy mà vùng lên. Nhà thơ được kết nạp Đảng ngay Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ. Cái
hay của bài thơ là sự kết hợp tuyệt đẹp riêng và chung trong tâm hồn
thơ. Có những hình tượng bản thân là loại hình tượng kép: Mẹ - Quê hương, Mẹ - Đồng chí … Mẹ không là đồng chí/ Nhưng Đảng kỳ đây chính là của mẹ và cao hơn cả: Mẹ - Đảng.
Tôi đứng dưới cờ đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau.
Tình
mẫu tử thiêng liêng, tình quê hương sâu nặng, tình Đảng cao quý như
quyện chặt lấy nhau. Nghĩ về mẹ cùng lúc nghĩ đến quê hương và Đảng hay
chu trình ngược lại đều là những con đường của tình cảm và trí tuệ gắn
bó. Bài thơ đã tổng kết một quá trình tư tưởng cách mạng, khái quát một
triết lý sâu sắc về lẽ sống và lý tưởng cùng với đúc kết lại một hành
trình tình cảm đạo lý. Sự từng trải trên quê hương từ những năm đầu
kháng chiến đã tạo nên tự hào, vinh dự cho đứa con thân yêu: Ơi kháng
chiến! Mười năm qua như ngọn lửa / Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường/
Con đã đi nhưng còn vượt nữa/ Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương (Tiếng hát con tàu).
mẫu tử thiêng liêng, tình quê hương sâu nặng, tình Đảng cao quý như
quyện chặt lấy nhau. Nghĩ về mẹ cùng lúc nghĩ đến quê hương và Đảng hay
chu trình ngược lại đều là những con đường của tình cảm và trí tuệ gắn
bó. Bài thơ đã tổng kết một quá trình tư tưởng cách mạng, khái quát một
triết lý sâu sắc về lẽ sống và lý tưởng cùng với đúc kết lại một hành
trình tình cảm đạo lý. Sự từng trải trên quê hương từ những năm đầu
kháng chiến đã tạo nên tự hào, vinh dự cho đứa con thân yêu: Ơi kháng
chiến! Mười năm qua như ngọn lửa / Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường/
Con đã đi nhưng còn vượt nữa/ Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương (Tiếng hát con tàu).
Quê hương Quy Nhơn - Bình Định lại là nguồn kỷ niệm thân thương, tha thiết nữa, nhưng quan trọng đó là cái nôi cho một thi tài.
Chính
ở Quy Nhơn mà Chế Lan Viên đã viết bài thơ đầu tiên, ra tập thơ đầu
tiên. Nhưng biết bao cảnh, bao người, bao sự việc đã giúp Chế Lan Viên
nên người, nên văn ở đấy. "Theo tôi nghĩ thì những cái xa văn, ngoài văn
có khi mở đầu cho việc yêu văn". Cũng theo Chế Lan Viên, ngoài việc lấy
văn nuôi văn là chuyện khác, bàn sau, còn "Cái chỉ là thơ thôi, giết
chết thơ" như một nhà thơ nước ngoài đã nói như vậy. Và đây là hoàn cảnh
độc đáo và sức mạnh truyền cảm tạo hồn thơ cho Chế Lan Viên .
ở Quy Nhơn mà Chế Lan Viên đã viết bài thơ đầu tiên, ra tập thơ đầu
tiên. Nhưng biết bao cảnh, bao người, bao sự việc đã giúp Chế Lan Viên
nên người, nên văn ở đấy. "Theo tôi nghĩ thì những cái xa văn, ngoài văn
có khi mở đầu cho việc yêu văn". Cũng theo Chế Lan Viên, ngoài việc lấy
văn nuôi văn là chuyện khác, bàn sau, còn "Cái chỉ là thơ thôi, giết
chết thơ" như một nhà thơ nước ngoài đã nói như vậy. Và đây là hoàn cảnh
độc đáo và sức mạnh truyền cảm tạo hồn thơ cho Chế Lan Viên .
"Cho
tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lỵ
An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định - Diêu Trì; biết ơn
bờ biển Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và những rừng dừa từng rợp bóng lên tôi.
Cành dừa cao say sưa ôm bóng ngủ, chính là dừa ấy chứ còn đâu?"
tôi biết ơn cái tháp Chàm và thành Bình Định cũ, biết ơn cái huyện lỵ
An Nhơn hẻo lánh và những chuyến tàu đêm Bình Định - Diêu Trì; biết ơn
bờ biển Quy Nhơn vỗ sóng ru tôi và những rừng dừa từng rợp bóng lên tôi.
Cành dừa cao say sưa ôm bóng ngủ, chính là dừa ấy chứ còn đâu?"
Làm
thơ phải có chữ nghĩa - tất nhiên - nhưng rất cần là một không gian văn
hoá. Đó là vùng đất từng lẫy lừng Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang
Trung. Lòng yêu nước mơ hồ qua nỗi đau mất nước ở Điêu tàn cũng bắt nguồn từ đấy. Có những cảnh - tình được nhà thơ phân tích từ rất xa: "Chả
lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà lá mái, cửa bàn
khoa Bình Định, hay cái vòng quay kiên trì, triền miên của các xe nước
ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ. Nhưng quả là những
đêm hát bội ở An Vinh, các cuộc đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất
hùng tráng"… "Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc
đổ giàn thượng võ này?". Những câu thơ đánh Mỹ ?... Kinh Đại tạng xé theo súng 12 ly 7 … Những năm chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương … Mặt Phật không cười cùng hoa sen nữa thực ra đó là sự biến hoá yếu tố thần bí … "trong tiếng tụng kinh trước bàn thờ phật" của ông bố và "tầm ngân vang của chuông nhà thờ đạo Kim Châu" gần nhà. Chế Lan Viên đã truyền cái kinh nghiệm giản đơn mà sâu sắc: "Làm thơ chỉ biết có thơ thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hoá nữa" (Bước đầu của tôi).
thơ phải có chữ nghĩa - tất nhiên - nhưng rất cần là một không gian văn
hoá. Đó là vùng đất từng lẫy lừng Chàng Lía, Mai Xuân Thưởng, Quang
Trung. Lòng yêu nước mơ hồ qua nỗi đau mất nước ở Điêu tàn cũng bắt nguồn từ đấy. Có những cảnh - tình được nhà thơ phân tích từ rất xa: "Chả
lẽ lại nói là những kiểu kiến trúc đặc biệt của nhà lá mái, cửa bàn
khoa Bình Định, hay cái vòng quay kiên trì, triền miên của các xe nước
ngoài Quảng Ngãi đã cho tôi sự chịu khó trong thơ. Nhưng quả là những
đêm hát bội ở An Vinh, các cuộc đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất
hùng tráng"… "Chất hùng ca trong thơ làm sao không dính líu với các cuộc
đổ giàn thượng võ này?". Những câu thơ đánh Mỹ ?... Kinh Đại tạng xé theo súng 12 ly 7 … Những năm chiến tranh mặt Chúa cũng sầu thương … Mặt Phật không cười cùng hoa sen nữa thực ra đó là sự biến hoá yếu tố thần bí … "trong tiếng tụng kinh trước bàn thờ phật" của ông bố và "tầm ngân vang của chuông nhà thờ đạo Kim Châu" gần nhà. Chế Lan Viên đã truyền cái kinh nghiệm giản đơn mà sâu sắc: "Làm thơ chỉ biết có thơ thôi, không được. Làm thơ với trái tim, với chất sống, không đủ. Phải có văn hoá nữa" (Bước đầu của tôi).
Sau
này, Chế Lan Viên còn nhiều dịp nhớ lại vùng quê hương này của mình
nhưng với những tình cảm suy tư đã có nhiều đổi khác. Có gì như day dứt
hơn trong hoài niệm, lại có gì ngỡ ngàng trong hồi tưởng và không kìm
nén được những hy vọng thiết tha, những trầm tư, suy nghiệm mang ý vị
triết lý đời người và cả đời thơ.
này, Chế Lan Viên còn nhiều dịp nhớ lại vùng quê hương này của mình
nhưng với những tình cảm suy tư đã có nhiều đổi khác. Có gì như day dứt
hơn trong hoài niệm, lại có gì ngỡ ngàng trong hồi tưởng và không kìm
nén được những hy vọng thiết tha, những trầm tư, suy nghiệm mang ý vị
triết lý đời người và cả đời thơ.
Những năm nao còn là tưởng vọng và hy vọng về mẹ, về quê và con đường thống nhấtChắp đường Nam Bắc con thăm mẹ. Vẫn tấm lòng quê vời vợi suốt bao nhiêu năm xa cách (Hoa quê mình, Nhớ tuổi thơ…)
Ngày thống nhất về lại thăm quê bao tình cảm vui buồn xáo trộn: nhớ,
thương, mừng tủi, ngỡ ngàng như vừa quen vừa lạ, đã gần lại hoá xa nhất
là nhớ về mẹ, nhớ về bạn cũ, trường xưa. Có nghịch cảnh trớ trêu. Nỗi
vui đoàn tụ và nỗi đau chiến tranh, mất mát chung và thiệt thòi bản
thân. Một đời xa cách mẹ, miếng ngon qua miệng nhưng nước mắt chan cơm:
Ngày thống nhất về lại thăm quê bao tình cảm vui buồn xáo trộn: nhớ,
thương, mừng tủi, ngỡ ngàng như vừa quen vừa lạ, đã gần lại hoá xa nhất
là nhớ về mẹ, nhớ về bạn cũ, trường xưa. Có nghịch cảnh trớ trêu. Nỗi
vui đoàn tụ và nỗi đau chiến tranh, mất mát chung và thiệt thòi bản
thân. Một đời xa cách mẹ, miếng ngon qua miệng nhưng nước mắt chan cơm:
Ừ thế đó một đời xa cách mẹ
Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm
Mẹ mất, bạn thiếu thời chẳng còn ai Nền nhà nay dựng có quan mới. Tâm
trạng thấy vật đổi sao dời là của muôn năm. Tứ thơ có cái gì giống với
Nguyễn Du khi trở về Thăng Long than thở khi thấy nhà lớn đã biến thành
đường cái, lại hao hao với cảm giác Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương với những câu mở đầu tương tự Khi đi trẻ, lúc về già và Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi.(Trở lại An Nhơn). Nhưng cảnh cũ đã mất lại gây nghịch cảm trong lòng: Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có
lẽ xa xót nhất, đau đớn nhất trong tâm tư Chế Lan Viên là nỗi nhớ
thương mẹ và cũng là lòng ngưỡng mộ bà mẹ dân dã mà cao cả. Ấy là bà mẹ
hiện hình từ trong Đêm giao thừa (Bình Định - 1937) mà sau này chỉ còn
là di ảnh trong hoài niệm của nhà thơ rất nhiều lần, suốt đời người Gửi
mẹ trong vùng giặc chiếm (Gửi các anh) Mẹ (Ánh sáng và phù sa), Chiêm
bao gặp mẹ, Vườn mẹ không hoa, Cây mai vườn thống nhất (Đối thoại mới),
Canh cá tràu (Hái theo mùa), Mẹ dân dã (Ta gửi cho mình) và những bài trong Di cảo thơ II, III, Thăm mộ mẹ, Hái trên trời…
trạng thấy vật đổi sao dời là của muôn năm. Tứ thơ có cái gì giống với
Nguyễn Du khi trở về Thăng Long than thở khi thấy nhà lớn đã biến thành
đường cái, lại hao hao với cảm giác Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương với những câu mở đầu tương tự Khi đi trẻ, lúc về già và Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi.(Trở lại An Nhơn). Nhưng cảnh cũ đã mất lại gây nghịch cảm trong lòng: Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người. Có
lẽ xa xót nhất, đau đớn nhất trong tâm tư Chế Lan Viên là nỗi nhớ
thương mẹ và cũng là lòng ngưỡng mộ bà mẹ dân dã mà cao cả. Ấy là bà mẹ
hiện hình từ trong Đêm giao thừa (Bình Định - 1937) mà sau này chỉ còn
là di ảnh trong hoài niệm của nhà thơ rất nhiều lần, suốt đời người Gửi
mẹ trong vùng giặc chiếm (Gửi các anh) Mẹ (Ánh sáng và phù sa), Chiêm
bao gặp mẹ, Vườn mẹ không hoa, Cây mai vườn thống nhất (Đối thoại mới),
Canh cá tràu (Hái theo mùa), Mẹ dân dã (Ta gửi cho mình) và những bài trong Di cảo thơ II, III, Thăm mộ mẹ, Hái trên trời…
Bởi vì hình ảnh Mẹ đã quấn quyện với Quê hương và Đất nước từ lâu trong hồn thơ tha thiết thảo hiền đằm thắm Chế Lan Viên.
Một thời là
bài thơ nói hoàn chỉnh về nỗi niềm nhớ quê hương và người thân của Chế
Lan Viên, xuất hiện vào những năm cuối đời (khoảng 1987 - 1988). Mở đầu
là Những trưa hè… Nhớ thành Bình Định xưa, căn nhà im phăng phắc… và sau đó là cảnh gia đình cha, mẹ và các anh chịCòn tôi thả hồn lên những đầu cây/ Chờ thơ và đón bắt… Thế mà bây giờ, thật đau xót: Nay mộ mẹ ở Đông Hà, mộ cha trên núi/ Mộ chị Ba ở rừng cao su sẩm tối/ Chị Tư heo hút một mình…Nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật Thời gian không thể hoá thành dòng sông chảy ngược/ Cho ta về với những ngày…
bài thơ nói hoàn chỉnh về nỗi niềm nhớ quê hương và người thân của Chế
Lan Viên, xuất hiện vào những năm cuối đời (khoảng 1987 - 1988). Mở đầu
là Những trưa hè… Nhớ thành Bình Định xưa, căn nhà im phăng phắc… và sau đó là cảnh gia đình cha, mẹ và các anh chịCòn tôi thả hồn lên những đầu cây/ Chờ thơ và đón bắt… Thế mà bây giờ, thật đau xót: Nay mộ mẹ ở Đông Hà, mộ cha trên núi/ Mộ chị Ba ở rừng cao su sẩm tối/ Chị Tư heo hút một mình…Nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật Thời gian không thể hoá thành dòng sông chảy ngược/ Cho ta về với những ngày…
Chế
Lan Viên đau đáu một đời với quê hương với gia đình, người thân, với mẹ
già sống đau khổ nhẫn nại và bền bỉ dũng cảm ở vùng quê. Đó là một tình
cảm tự nhiên tha thiết và nhân hậu, thuỷ chung một đời. Thơ về quê - cả
hai vùng - đều thắm thiết cho đến tận trước khi từ giã cõi đời này. Bởi
đó là máu thịt của hồn thơ, là sự thể hiện bằng lời hay, ý đẹp một tình
cảm cao quý, thiêng liêng của con người biết sống trọn tình, vẹn nghĩa.
Lan Viên đau đáu một đời với quê hương với gia đình, người thân, với mẹ
già sống đau khổ nhẫn nại và bền bỉ dũng cảm ở vùng quê. Đó là một tình
cảm tự nhiên tha thiết và nhân hậu, thuỷ chung một đời. Thơ về quê - cả
hai vùng - đều thắm thiết cho đến tận trước khi từ giã cõi đời này. Bởi
đó là máu thịt của hồn thơ, là sự thể hiện bằng lời hay, ý đẹp một tình
cảm cao quý, thiêng liêng của con người biết sống trọn tình, vẹn nghĩa.

Nhất phiến tân thành một cố cung
(Những ngôi nhà đồ sộ ngày xưa, nay thành đường cái
Một dãy thành mới làm mất dấu vết cung điện cũ)
Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2016
Hát thơ Việt Bắc thơ Tố Hữu Vũ Huy Dự
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Hát thơ Việt Bắc thơ Tố Hữu Vũ Huy Dự.Xem thêm tại : http://tiengthovietnam.blogspot.com/
Việt Bắc thơ Tố Hữu
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.....
Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016
Hai sắc hoa Ti gon .Ngâm thơ . Tho TTKH Hoang Oanh
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Hai sắc hoa Ti gon .Ngâm thơ . Tho TTKH Hoang Oanh.
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
Đất Nước -Ngâm thơ (Châu Loan ngâm )
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài thơ Đất nước -Sáng tác: Nguyễn Đình Thi Ngâm thơ: Châu Loan
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Chút tình riêng gửi Huế Thu Hương ngâm thơ
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Chút tình riêng gửi Huế Thu Hương ngâm thơ
Chén Rượu Vô Thường Vàng Xương Lá Mục Ngâm thơ
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Chén Rượu Vô Thường Vàng Xương Lá Mục Ngâm thơ.
Chén Rượu Vô Thường
Tác giả: Trần Đại
Đêm nay
rót rượu một mình
một mình ta uống, một mình ta say
Ngoài kia.
một mảnh trăng gầy
thẹn thùng chẳng dám vào đây chuyện trò
Được thôi
say
ngủ một mình
một giường một chiếu, chỉ mình ta thôi
Liêu trai
một bóng ma ngồi
chờ ma men sỉn, thành đôi nhân tình
Nâng ly
tính sổ nhân sinh
ta thay Thượng Đế giải trình "Nhân-Gian"
tình vị tha
hận lỡ làng
tình kia vị kỷ gây ngàn khổ đau
Ngà say
hỏi đấng Vô-Thường
tình yêu, tình ái, tình thương làm gì?
tình trong nhân thế mà chi?
về hư vô
thiếu tình si ...chán chường ?
Say rồi
nhớ chuyện phục-sinh
mai này sống lại ... có tình em không ?
Thiên Đường nếu có chờ mong
thì tình em đấy còn nồng như xưa?
Đêm nay
ngẫm lại đời mình
sống trong nhân thế mà hình như không
Tình ta
như biển mênh mông
mà em
hạt muối
làm nồng đại dương
Câu lục bát đánh rơi Ngâm thơ Tác giả thơ Nguyễn ĐÌnh Vinh
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Câu lục bát đánh rơi Ngâm thơ Tác giả thơ Nguyễn ĐÌnh Vinh
Tôi đi nhặt chút nắng tôi
Nhặt câu lục bát đánh rơi thủơ nào
Câu lục rớt ở cầu ao
Để cho câu bát chìm vào ven sông
Nắng thơm rớt tận cánh đồng
Câu thơ ướt sũng mà không kịp về
Câu lục trôi dạt ven đê
Mẹ tôi vớt cả câu thề để hong
Tháng hai lúa trỗ đòng đòng
Câu thương vấn vít nỗi mong đợi người
Yếm đào ngượng mụ còn tươi
Môi hường chúm chím em cười làm duyên
Câu thơ vướng phải mạn thuyền
Bỗng ai ném cả dấu huyền cho tôi
Câu lục bát vớt được rồi
Dường như nghe thấy đất trời tơ vương
Cách mạng.Chế Lan Viên. Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Cách mạng.Chế Lan Viên. Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết
Cách mạng Thơ: Chế Lan Viên ngâm : NSUT Trần Thị Tuyết.
Tên thật là: Phan Ngọc Hoan
Bút danh khác: Thạch Hãn, Chàng Văn.
Quê quán: Cam An - Cam Lộ- Quảng Trị. Thời trai trẻ chủ yếu sống ở Quy Nhơn - Bình Định. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Cách mạng tháng Tám thành công, Chế Lan Viên đến với cách mạng bằng sự hăng hái nhiệt tình của tuổi trẻ. Ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của Mặt trận Việt minh, báo Cứu quốc, Kháng chiến của liên khu IV. Năm 1949 Chế Lan Viên được kết nạp vào Đảng.
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở Phòng Văn nghệ, Ban tuyên huấn Trung Ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học. Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ sau năm 1975, ông chuyển vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh và qua đời tại đó vào ngày 19 - 6 - 1989.
Ông để lại cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ :
- Trước Cách mạng tháng Tám :
+ Thơ : Điêu tàn (1937)
+ Văn xuôi : Vàng sao (1942 )
- Sau Cách mạng tháng Tám :
+ Thơ : Gửi các anh (1955), Aùnh sáng và phù sa ( 1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Ngày vĩ đại (1975), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986), Di cảo thơ I ( 1992), Di cảo thơ II ( 1993), Di cảo thơ III ( 1996).
+ Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Thăm Trung Quốc (1963), Những ngày nổi giận (1966), Nói chuyện văn thơ (1960), Phê bình văn học ( 1962), Vào nghề (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971), Bay theo đường dân tộc đang bay (1977), Từ gác khuê văn đến quán Trung Tân ( 1981), Nghĩ cạnh dòng thơ ( 1982), Ngoại vi thơ (1987).
Có thể nói, cả cuộc đời mình, Chế Lan Viên gắn bó với Tổ quốc, có nỗi đau xót xa trước cảnh Điêu tàn và bao niềm vui khi cuộc đời rực rỡ phù sa. Cuộc sống cách mạng đã giúp Chế Lan Viên “Bay theo đường dân tộc đang bay”, tạo điều kiện thuận lợi để ông phát huy được tài năng, đóng góp lớn cho kho tàng văn chương của dân tộc.
Hỡi ai đi lên phía trước chớ quên sau lưng mình cái hang Pắc Bó
Đi tận cùng năm tháng không quên
Đi khuất lấp vẫn còn nhớ mãi
Đi muôn xa còn quay lại ngoái nhìn.
Qua Điện Biên, Ấp Bắc đừng quên
Vượt sông Hồng, sông Cửu không quên
Đong mùa vàng năm tấn, nào quên
Gặt vạn ngày thắng Mỹ, không quên.
Cả nước mắt, hang này là độc lập
Thay non sông đón Bác buổi ban đầu
Rừng hiền hậu suối khe chất phác
Lịch sử lấy nơi này làm đất chôn rau
Dù muôn trùng còn cách mũi Cà Mau
Một tấc đất đã là Tổ quốc
Nay có trong tay trời Nam bể Bắc
Dám đâu quên hang nhỏ thuở ban đầu
Những bóng người trên sân ga.Thơ Nguyễn Bính Ngâm thơ Hoang Oanh
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bóng người trên sân ga Thơ Nguyễn Bính Ngâm thơ Hoàng Oanh
Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngày.
Có lần tôi thấy hai cô gái
Sát má vào nhau khóc sụt sùi
Hai bóng chung lưng thành một bóng
"Đường về nhà chị chắc xa xôi?"
Có lần tôi thấy một người yêu
Tiễn một người yêu một buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu.
Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu
Họ giục nhau về ba bốn bận
Bóng nhòa trong bóng tối từ lâu.
Có lần tôi thấy vợ chồng ai
Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài
Chị mở khăn giầu anh thắt lại:
"Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi!"
Có lần tôi thấy một bà già
Đưa tiễn con đi trấn ải xa
Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
Lưng còng đổ bóng xuống sân ga
Có lần tôi thấy một người đi
Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly.
Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt nhìn đôi mắt,
Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
Tôi đã từng chờ những chuyến xe
Đã từng đưa đón kẻ đi về
Sao nhà ga ấy sân ga ấy
Chỉ để cho lòng dấu biệt ly?
Hà Nội, 1937
Bầm ơi Tố Hữu Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bầm ơi Thơ: Tố Hữu ngâm thơ : NSUT Trần Thị Tuyết
Bầm ơi!
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cụng nghe thầm tiếng con...
Bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi Ngâm thơ
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi Ngâm thơ
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Bài Thơ Núi Đôi Ngâm thơ
Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị Bài Thơ Núi Đô( Sáng tác Vũ Cao) Ngâm thơ
Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?
Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.
Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thửa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung!
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ có con đường quen.
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong;
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Từ núi qua thôn, dường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay
Cha mẹ đưa nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này!
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em: đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
1956
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)