Thứ Năm, 19 tháng 1, 2017

Ngâm thơ Anh đừng khen em (Lâm Thị Mỹ Dạ)



Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Ngâm thơ Anh đừng khen em(Lâm Thị Mỹ Dạ)

Chúc  quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.

Lần đầu khi mới làm quen

Anh khen cái nhìn em đẹp



Trời mưa òa cơn nắng đến

Anh khen đôi má em hồng



Gặp người tàn tật em khóc

Anh khen em nhạy cảm thông



Thấy em sợ sét né giông

Anh khen sao mà hiền thế!



Thấy em nâng niu con trẻ

Anh khen em thật dịu dàng



Khi hôn lên câu thơ hay

Ấp trang sách vào mái ngực

Em nghe tim mình thổn thức

Thương người làm thơ đã mất

Trái tim giờ ở nơi đâu?



Khi đọc một cuộc đời buồn

Lòng em xót xa, ấm ức

Anh khen em giàu cảm xúc

Và bao điều nữa...? - Anh khen



Em sợ lời khen của anh

Như sợ chiều về, hắt lối

Nhiều khi ngồi buồn một mình

Trách anh sao mà nông nổi



Hãy chỉ cho em cái kém

Ðể em nên người tốt lành

Hãy chỉ cho em cái xấu

Ðể em chăm chút đời anh



Anh ơi, anh có biết không

Vì anh em buồn biết mấy

Tình yêu khắt khe thế đấy

Anh ơi anh đừng khen em

1973

Lời tâm sự của Nhà thơ Lâm Thị Mĩ Dạ

Hồi đó Hội nhà văn Việt Nam tổ chức khoá bồi dưỡng Những  người viết văn trẻ. Tôi được cử đi Hà Nội học. Tôi không hiểu sao mình có thể thoát chết khi đi trong  luồng bom đạn ác liệt 500 cây số từ Đồng Hới ra Hà Nội. Lớp có 25 anh chị, tôi là người trẻ nhất, 19 tuổi. Tôi ở cùng phòng với Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Chị thuộc thế hệ trước tôi.

Hồi đó, tôi có quen một người bạn trai. Anh quý tôi tới mức cái gì tôi làm, cái gì tôi có anh cũng đều khen. Chưa bao giờ tôi thấy anh chê trách tôi cái gì, dẫu có những việc tôi làm không đúng. Chúng tôi thuần tuý là bạn, chưa có gì để manh nha cho một tình yêu. Nhưng  tình bạn như vậy sẽ đi đến đâu, có giúp nhau được gì trong đời sống này. Nhiều khi ngồi ngẫm nghĩ thấy buồn bã quá. Tự dưng tứ thơ “anh đừng khen em” bất chợt đến. Tôi viết một mạch, đọc lại thấy nghi ngờ, không biết đây có phải là thơ hay không? Ngày đó, tôi ít tin vào khả năng thơ phú của mình. Tôi đang viết câu cuối của bài thơ thì chị Nhàn mở cửa vào. Tôi vò vội tờ giấy giụi xuống mép chiếu. Chị Nhàn chạy đến thấy được, chị tưởng tôi cất thư tỏ tình của ai. Chị giằng co tờ giấy với tôi. Cuối cùng chị đã lấy được nó. Tôi đỏ mặt: “Em làm thơ đó nhưng không phải là thơ. Trả lại cho em đi!”. Chị Nhàn đọc một cách chăm chú rồi reo lên: “Đây là bài thơ hay, có tứ lạ. Tao nói thiệt đó, thơ đây mà. Mày đừng xé đi để tao đưa cho thầy Xuân Diệu đọc  cho”. Tôi nhướng mắt vẻ nghi ngại: “Chị không đùa em chứ? Đó đúng là thơ thiệt không đó chị Nhàn?”. Chị Nhàn bảo tôi chép sạch và đưa cho thầy Xuân Diệu. Và Bài thơ Anh đừng khen em của tôi được khẳng định.

Đó là những kỷ niệm đẹp mà tôi nhớ mãi trong đời làm thơ của tôi. Tình yêu không có trong tôi trước – Cuộc sống cho tôi tình yêu luôn luôn mới…



Một vài cảm nhận về nhà thơ

Trong nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có một người thơ viết nên những bài thơ vì tình yêu đương của riêng mình và cho tình yêu đương của mọi người. Nói đúng ra, thật khó phân biệt trong dòng nước sông Hương đâu là những hạt nước từ nhánh nguồn này, đâu là những hạt nước từ nhánh nguồn kia, mặc dù ai cũng biết dòng sông ấy hợp lại từ hai mạch thẳm rừng sâu.

Với tuyển thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, "Chỉ riêng mình em thấy" (*), tôi không thể gọi bằng danh xưng nào khác về tác giả: Người Thơ. Vâng, là người thơ (thi nhân), với tất cả ý nghĩa rất đẹp của từ ngữ. Lâm Thị Mỹ Dạ là thơ tình ấy và thơ tình ấy là con người của Lâm Thị Mỹ Dạ. Không phải ở bất kì nhà thơ nào cũng có sự đồng nhất này.

Và dòng sông Hương ví von kia, trong một cách nhìn nào đó, lại kết hợp từ Nhật Lệ ấu thơ và thời thiếu nữ với Thạch Hãn quê hương của người tình trăm năm. Nhưng không chỉ thế, còn có một dòng sông trên trời xanh xa với một người tình nào đó rất hư ảo nữa.

Muôn thuở là vậy, thơ ca về tình yêu đương, đi vào tận chiều sâu của những rung động tinh tế, những ý nghĩ thầm kín, lại chính là mở ra không gian và thời gian vô cùng, với gương mặt thơ có khi rất thật lại có khi rất ảo...

Tuyển thơ trên tay mấy hôm rồi giúp tôi lắng lại lòng mình để hình dung ra một người thơ với tất cả những gì đã kết tinh và còn lại từ một trái tim. Trái tim ấy được ngắm nhìn trong ánh sáng và bóng tối của tình yêu đương.

Không cách nào khác được, tôi phải viết một chút gì đó về tuyển thơ này. Trước hết, có lẽ tôi phải khắc đậm dòng chữ: Khát vọng và âu lo hoàn thiện phẩm chất bên trong

Đó là ấn tượng hình thành trong tôi từ "Chỉ riêng mình em thấy", tập tuyển thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, nhất là ở mảng thơ thuở người thơ còn là một cô gái trẻ.

Trong bài "Đọc Lâm Thị Mỹ Dạ" được trang trọng đặt ở sáu trang đầu tuyển, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho biết, có rất nhiều bạn đọc rất thích bài thơ có tên "Anh đừng khen em". Tôi nghĩ, nếu vậy, chắc hẳn hai bài "Em sợ" và "Anh có tốt không" cũng không nằm ngoài niềm yêu thích của số bạn đọc không ít ấy. Và tất nhiên, những bài thơ hay cho dù nét hay nổi bật chỉ do đặc sắc về tứ, vẫn lấp lánh nhiều khía cạnh như kim cương, mỗi bạn đọc thích với một ánh mắt rất riêng nào đó.

Tôi không nghĩ rằng người thơ không nhận ra vẻ đẹp trong nhan sắc của mình, vì người thơ nữ này cơ hồ bị sống giữa một hoang đảo, như một thi sĩ đã viết. Không, hẳn không phải vậy. Từ tuổi học trò, người thơ chắc chắn đã sống giữa bao ánh mắt ngưỡng mộ (có thể có thêm dăm khoé nhìn ganh tị nữa), về sắc (ấy là chưa kể về tài). Nói chung, không một cô gái đẹp nào không nhận ra vẻ đẹp nhan sắc của mình, qua ánh mắt bao người sống quanh mình, huống hồ cô gái tinh tế Lâm Thị Mỹ Dạ! Có điều, khi quả thật là như thế, thì làm thế nào để hiểu về bài thơ này, lại do một cô gái đẹp viết – cô gái này hẳn được hoài thai trong một đêm đẹp (mỹ dạ) cả đất lẫn trời hay ít ra cũng đẹp lòng người:

"Những lúc anh khen / Mặt em trẻ đẹp / Là lúc em buồn / Và em thấy ghét... // Một nỗi lo âu / Buốt trong ngực trẻ / Lời anh ngọt ngào / Lòng em đau xé"

Có lẽ không thể hiểu được phần nào đó, nếu không đọc những câu tiếp theo:

""Em tôi xinh đẹp" / Xin anh đừng khen / Tình yêu không ở / Trên gương mặt em // Năm tháng cuốn trôi / Một thời con gái / Trên gương mặt em / Nếp buồn đọng lại // Em tôi xinh đẹp / Anh còn khen ai?" (Em sợ, 1972).

Phải chăng, có người cảm nhận ra, tâm trạng ấy không phải của một cô gái đẹp? Đó thực sự là nỗi mặc cảm tự ti, thể hiện qua lời nói đỡ, gượng nói, của một cô gái thiếu cả chút đỉnh nhan sắc trời cho; thậm chí nỗi tự ti kia, khiến cô gái kém may mắn không tin lời khen ấy dành riêng cho mình?

Nhưng ai cũng biết đó là một cách cảm nhận lệch.

Đúng ra, người thơ xinh đẹp này muốn chỉ vào trái tim mình, và muốn nói với chàng trai kia, tình yêu đích thực mãi mãi bền lâu là trong trái tim, ở tấm lòng. Nỗi lo âu đến mức xé lòng của cô gái, không phải là gì khác ngoài tâm trạng âu lo nhan sắc xinh đẹp ấy sớm tàn phai. Lo âu còn tăng lên thành lo sợ, cô gái thầm hỏi, liệu chàng trai vốn yêu nhan sắc trên làn da, nơi dáng bước này còn buông lời tán ca nhan sắc cho ai đó nữa?

Cũng không cảm nhận hết bài thơ "Em sợ" này, nếu chúng ta không hiểu được trong thời chiến tranh, nhất là ở miền quê, bao cô gái trẻ thực sự chỉ là những đoá phù dung. Mới còn là cô bé lấm lem bùn và mực tím, chìm lấp nét dậy thì, bỗng dưng vẻ đẹp bừng sáng lên, nhưng chỉ bừng sáng lên trong vài năm, rồi lại lấm lem tay bế tay bồng cho đến tuổi già xế bóng. Vì thế, tình nghĩa thuỷ chung chỉ được nuôi dưỡng bằng tấm lòng, đức hạnh.

Đây là một bài thơ rất chân thành của người thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, một nhà thơ nữ vốn xinh đẹp một cách cao sang, thuỳ mị từ thời thiếu nữ.

Trước khi viết bài thơ này hai năm, người thơ ấy đã thể hiện cảm xúc, ý nghĩ thành lời độc thoại nội tâm cũng trong một tâm trạng tương tự. Đó là bài thơ được nhiều người đọc đồng cảm: "Anh đừng khen em" (1970). Nhưng lần ấy, không phải chỉ là nỗi lo sợ trước sự nhanh chóng tàn phai nhan sắc, mà âu lo không hoàn thiện được phẩm chất bên trong của chính mình.

Chàng trai yêu dấu của người thơ đã khen cô những gì? Khen cái nhìn đẹp, đôi má hồng tràn đầy sức sống, ửng lên niềm yêu đời, cảm ứng với thiên nhiên, lại dễ rơi nước mắt cảm thông với người tàn tật; khen đức tính hiền hoà, tránh né những giông gió sấm sét của xã hội chung quanh, lại dịu dàng nâng niu con trẻ; khen lòng yêu thơ ca với niềm tương liên nhà thơ đã mất, lại giàu cảm xúc với niềm chia sẻ cùng những phận đời buồn trong tiểu thuyết; và bao nhiêu nét đẹp tinh thần khác. Trước những lời khen đó, cô gái trẻ 21 tuổi đang bước đầu trở thành nhà thơ bỗng đâm ra lo sợ -- lo sợ sự sụp tối của tâm hồn mới bừng sáng cùng với nỗi héo hon, úa tàn của những phẩm chất về tính cách, nội tâm và năng khiếu nghệ thuật ngôn từ. Rồi từ lo sợ phẩm chất người thơ, nhưng nổi bật hơn vẫn là lo sợ phẩm chất người nữ trong mình, sẽ tiêu hao, lụi tắt, cô gái trẻ vu vơ trách móc chàng trai đã bày tỏ lời khen ngợi kia là nông nổi. Khi nói những lời khen kia là nông nổi, phải chăng Lâm Thị Mỹ Dạ còn khiêm tốn cảm thấy mình chưa có đủ những phẩm chất tinh thần được ngợi khen kia? Và chỉ khen thôi, cũng là nông nổi? Tứ thơ kết lại:

"Hãy chỉ cho em cái kém

Để em nên người tốt lành

Hãy chỉ cho em cái xấu

Để em chăm chút đời anh"

Cô gái còn bảo, "vì anh em buồn biết mấy". Đó là trạng thái buồn của tâm cảnh đầy âu lo – âu lo bản thân mình không vươn lên mãi được cho xứng với lời khen ngợi, mà biết đâu, rất dễ tự đánh đắm mình trong dòng sông mật ngọt lời khen.

"Tình yêu khắt khe thế đấy

Anh ơi, anh đừng khen em"

Đáng quý biết bao khát vọng và âu lo hoàn thiện phẩm chất bên trong của cô gái trẻ 21 tuổi, bước đầu vào tình yêu đương, bước đầu trên con đường thơ ca!

Trong những dòng vừa viết, tôi cũng biểu lộ một thoáng cảm đoán, hình như hình ảnh chàng trai trong bài thơ còn là biểu tượng của nghệ thuật ngôn từ, nhưng nhà thơ nữ trẻ tuổi muốn giấu đi bóng dáng biểu tượng ấy, để bài thơ chỉ còn là một tâm trạng của tình yêu nam nữ đơn thuần. Vì sao vậy? Sao chẳng viết: "Thơ ca khắt khe thế đấy / Thơ ơi, anh đừng khen em!", với ý nghĩa, Thơ ca được Lâm Thị Mỹ Dạ gọi bằng đại từ "anh"? Khiêm tốn chăng? Cũng có. Ở tuối còn quá trẻ, nói đến con đường thơ ca với biểu tượng nghệ thuật ngôn từ như thế, chừng như Lâm Thị Mỹ Dạ thuở ấy còn thấy "to tát" quá!

"Anh đừng khen em" (1970) và "Em sợ" (1972) là hai bài thơ tuy không đẹp về ngôn từ, hình ảnh cho bằng những bài thơ khác của Lâm Thị Mỹ Dạ, nhưng vẫn là tiêu biểu nhất cho một đặc điểm tâm lí nhà thơ. Đó chính là hai cánh cửa chính, hay hai thanh cầu dao của nguồn điện chính, trong ngôi nhà của người thơ nữ này. Mở tung ra hay ấn xuống, ánh sáng sẽ ngập tràn, bừng lên, soi cho ta thấy cõi nội tâm, cõi thơ ca Lâm Thị Mỹ Dạ. Ấn tượng đậm nhất khi đọc các tập thơ khác của người thơ, và đặc biệt ở riêng tuyển thơ tình mà người thơ tự cho là "Chỉ riêng mình em thấy", chính là từ hai bài thơ ấy.

Bài thơ khác, "Anh có tốt không", viết tại quê hương của ấu thơ -- Lệ Thuỷ (Quảng Bình) -- vào năm 1972, cũng cùng một "từ trường" cảm xúc thẩm mĩ khát vọng và âu lo hoàn thiện phẩm chất bên trong, nhưng đối tượng không phải là bản thân, mà là người yêu dấu, có lẽ sắp trở thành người chồng đồng thời là người tình trăm năm.

Đây là một bài thơ có kết cấu khá độc đáo cùng những điệp ngữ gắn kết với cách cấu tạo hình ảnh thơ, vừa triển khai vừa lật lại thứ tự các hình ảnh thơ trong đó, khiến bài thơ không những níu kéo người đọc bằng tứ mà còn bằng cấu trúc nghệ thuật.

"Như lúa hỏi đất / Anh có tốt không? // Như cây hỏi gió / Anh có tốt không? // Như mây hỏi trời / Anh có tốt không? // Trời anh mênh mông / Mây em bay lượn // Gió anh bao la / Cây em ve vuốt // Đất anh thẳm sâu / Lúa em cúi đầu // Nhưng sao vẫn hỏi / Day dứt trong lòng / Anh có tốt không?".

Không những đối với mình, mà cả đối với người yêu hiện tại cũng là người chồng tương lai, mối quan tâm đến day dứt trong lòng, trăn qua trở về, lật đi đảo lại, vẫn là những phẩm hạnh tinh thần.

Ngoài sự chín chắn, khôn ngoan, không xốc nổi, không chạy theo vẻ hào nhoáng mẽ ngoài, cô gái trẻ cũng là người thơ trẻ Lâm Thị Mỹ Dạ hình như còn có một vốn sống gián tiếp về kinh nghiệm sâu xa nào đó nữa. Có thể kinh nghiệm này đã thấm vào dòng sữa, miếng cơm mà người thơ được bú mớm từ thuở lọt lòng. Đây là một linh cảm khi thưởng thức thơ ca; lúc này, bỗng loé sáng trong tôi, cho dù linh cảm đó không có cở sở nào cả. Liệu hai khổ thơ này có nói lên được điều gì sâu kín chăng:



"Hai bốn năm trước đây / Mẹ sinh em ngày này / Mưa dột dầm ướt tóc / Gió tê buồn hai tay // Mẹ thiếu cả cửa nhà / Em - đứa trẻ vắng cha / Như mầm cây trên đá / Biết khi nào nở hoa" (Hái tuổi em đầy tay, 1973 [?]).

Không dám cam đoan thông tin sẽ được thuật lại ngay đây là sự thật, nhưng tôi có nghe phong thanh đâu đó, người thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có một người cha do hoàn cảnh đã phải lìa bỏ mẹ con của người thơ để đi xa, rồi cũng do hoàn cảnh, nên phải cách xa biền biệt, từ thuở nào đã mịt mùng, mờ nhòa dấu vết trong kí ức của đứa bé là Lâm Thị Mỹ Dạ bây giờ. Người thơ là đứa con gái độc nhất của người mẹ khổ đau, nhẫn nại với một nghị lực, sức chịu đựng phi thường và giàu lòng bao dung đó. Hình như người thơ không muốn cuộc đời của mình sẽ lặp lại bi kịch của mẹ, cho dù bi kịch ấy là ngoài ý muốn của người cha. Vì vậy, điều quan tâm đau đáu, đến mức vượt ngưỡng, so với các cô gái cùng thời khác: người yêu dấu đồng thời là người chồng tương lai phải là một người tốt. Có lẽ thế. Và trước hết, ở người thơ này, tốt là thuỷ chung (và không có gì có thể chi phối được cuộc sống thủy chung chồng vợ), tốt còn là hiếu đạo, biết đùm bọc không những người thơ mà còn cả người mẹ của người thơ nữa (*).

Nhưng dẫu sao cảm đoán ấy cũng xuất phát từ linh cảm thưởng thức thơ ca. Tôi nào quả quyết linh cảm ấy là hoàn toàn đúng. Chùm thơ trên kia nào có thể hiện gì về điều này đâu. Có điều, chính vì đặc điểm tâm lí vượt trên ngưỡng thông thường ấy ở một cô gái trẻ, một người thơ trẻ, và thật sự đẹp nữa (đến bây giờ vẫn còn đẹp, một vẻ đẹp cao sang mà bình dị), khiến chùm thơ cứ đẩy cảm xúc cùng suy tưởng của tôi miên man thế đó.

Tôi muốn nói thêm một điều có lẽ không thật cần thiết lắm, vì ai cũng biết, là cõi thơ ca tình yêu đương "Chỉ riêng mình em thấy" của người thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không chỉ có thế. Ngay mảng thơ thời con gái kín đáo của người thơ cũng đã phong phú với bao nhiêu là mộng mơ cùng người tình hư ảo giữa tầng trời xa xanh. Tuy nhiên, ấn tượng đậm nhất trong tôi về mảng thơ này là như thế.

Cũng còn dăm bảy chữ khác tôi muốn khắc đậm ở cõi thơ "Chỉ riêng mình em thấy": Cảm thức cô đơn và đơn độc. Nhưng tôi cảm thấy có chút gì đó hơi phân vân...

Cảm thức này thể hiện rõ ở nửa sau của tuyển thơ. Nhưng trong những cảm nhận tôi đã viết, vô hình trung tôi đã võ đoán về căn nguyên của cảm thức đơn độc. Có điều, nỗi đơn độc của một cô gái vốn là đứa con độc nhất của người mẹ suốt đời nhẫn nại, cam chịu bi kịch tình duyên lẻ loi của đời mình, trở thành cảm thức đơn độc trong gia đình, giữa chồng, con, mẹ già, về sau, thậm chí còn là nỗi cô đơn nữa, rồi từ cô đơn bỗng lắm khi trót dại hướng cả tâm hồn về người tình hư ảo, mãi mãi không bao giờ có thật (hay có thật nhưng mãi mãi vẫn chỉ là hư ảo)! Tâm cảnh ấy có nhất quán chăng với biện chứng của nội tâm, hay mâu thuẫn chăng với khát vọng và âu lo về phẩm chất bên trong như vừa trình bày về thơ yêu đương cũng như con người thơ Lâm Thị Mỹ Dạ?

Tôi cũng đang phân vân tự ngẫm lại cảm nhận của chính mình về điều này. Và tôi biết rằng, phải viết ở một bài khác...






Thứ Tư, 18 tháng 1, 2017

Sáng tháng năm .(Tố Hữu) Ngâm thơ



Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Sáng tháng năm .(Tố Hữu) Ngâm thơ

Chúc  quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam !

Vui sao một sáng tháng Năm

Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ

Suối dài xanh mướt nương ngô

Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn...



Bác kêu con đến bên bàn

Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ

Con bồ câu trắng ngây thơ

Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn

Lát rồi, chim nhé, chim ăn

Bác Hồ còn bận khách văn đến nhà



Bàn tay con nắm tay cha

Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng.

Bác ngồi đó, lớn mênh mông

Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non...

Bác Hồ, cha của chúng con

Hồn của muôn hồn

Cho con được ôm hôn má Bác

Cho con hôn mái đầu tóc bạc

Hôn chòm râu mát rượi hoà bình!



Ôi cái tên kính yêu Hồ Chí Minh!

Trong sáng lòng anh du kích

Nửa đêm bôn tập diệt đồn

Vững tay người chiến sĩ nông thôn

Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo

Anh thợ, má anh vàng thuốc pháo

Cánh tay anh dày sẹo lửa gang

Ôi những em đốt đuốc đến trường làng

Và các chị dân công mòn đêm vận tải!

Các anh chị, các em ơi, có phải

Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh

Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh!

Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi

Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi

Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ

Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi...



Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh

Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!

Giọng của Người, không phải sấm trên cao

Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước

Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước

Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...



Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị

Màu quê hương bền bỉ đậm đà

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn ở bên Người một chút...

Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút

Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời.

Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười

Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi!

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.



Hồ Chí Minh

Người ở khắp nơi nơi



Hồn biển lớn đón muôn lời thủ thỉ

Lắng từng câu, từng ý chưa thành

Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ

Người ngồi đó, với cây chì đỏ

Vạch đường đi, từng bước, từng giờ...



Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ

Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại!

Con nhớ hết mỗi lời Người dạy:

Kháng chiến gian nan, kháng chiến trường kỳ

Bác bảo đi, là đi

Bác bảo thắng, là thắng

Việt Nam có Bác Hồ

Thế giới có Xta-lin

Việt Nam phải tự do

Thế giới phải hoà bình!

Chúng con chiến đấu hy sinh

Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề.



Bắt tay Bác tiễn ra về

Nhớ hoài buổi sáng mùa hè chiến khu...

Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác nhiều nhất và hay nhất. Bác Hồ là cảm hứng lớn trong thơ ông. Trong rất nhiều sự kiện lịch sử của đất nước, Tố Hữu đều có thơ về Người. Hình ảnh Bác luôn lung linh, cao đẹp mà cũng rất ấm áp, giản dị, thân tình trong những vần thơ tràn ngập cảm hứng ngợi ca của “cánh chim đầu đàn thơ ca Cách mạng”.  
“Sáng tháng 5” là bài thơ Tố Hữu viết nơi chiến khu Việt Bắc, nhân dịp “lên thăm Bác Hồ” trong những tháng ngày cuộc chiến đấu chống Pháp của toàn dân tộc còn gian khổ. Gian khổ, nhưng bài thơ vẫn ngập tràn một ý chí lạc quan cách mạng, tha thiết tình cảm của người con đất Việt gửi đến lãnh tụ yêu kính của mình.
Trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, tháng 5 là một tháng thiêng liêng, náo nức bởi có sinh nhật Bác Hồ. Với đất trời, tháng 5 là tháng đầu hè, nắng mới bừng lên, cảnh vật đẹp tươi, rực rỡ, nhiều hoa thơm, trái ngọt… Cái đẹp của đất trời cộng hưởng với tình cảm trong lòng người khiến nhà thơ ngây ngất thốt lên trong một sáng tháng 5 đáng nhớ:
Vui sao một sáng tháng Năm
Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn...
Trong những tháng năm kháng chiến, khi các cơ quan đầu não của chính phủ phải sơ tán lên chiến khu Việt Bắc, cuộc sống của toàn dân, toàn quân gặp rất nhiều gian nan, khổ ải thì niềm vui cách mạng vẫn tràn ngập tâm hồn con người. Một sáng tháng năm vui tươi, nhà thơ trong chuyến công tác đặc biệt đã được “lên thăm Bác Hồ”. Niềm vui trong lòng trải trên cảnh vật. Không thấy dấu ấn của chiến tranh đâu. Không thấy những lo âu, cực nhọc, chỉ thấy sức sống và niềm vui dâng tràn bất tận trong màu “xanh mướt nương ngô” và gió lộng núi đồi Việt Bắc. Giữa khung cảnh thần tiên ấy, hình ảnh Bác Hồ hiện lên, trước tiên như một vị “cha già dân tộc”. Vị cha già ấy đang ân cần đón đứa con xa trở về trong tình cảm thắm thiết vô ngần:
Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ
Và cảm động hơn nữa là khung cảnh xung quanh Bác. Ngoài kia là “bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn”. Trong mái tranh giản dị này là:
Con bồ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn
Trong hình ảnh Bác phảng phất hình ảnh những tao nhân mặc khách, những nhà nho, nhân sỹ tiết tháo nổi danh của dân tộc. Đó là hình ảnh Nguyễn Trãi về ở ẩn giữ núi rừng Côn Sơn, quấn quýt với thiên nhiên tươi đẹp và gần gũi:
Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con
Đó là hình ảnh Nguyễn Bình Khiêm, Chu Văn An xa lánh bụi trần, dành trọn lòng trong của mình cho thiên nhiên. Nhưng cái khác ở Bác là Người không lui về ở ẩn. Giữ núi rừng Việt Bắc mênh mông, người vẫn miệt mài « chỉ đường đi từng phút từng giờ » cho toàn dân tộc. Bác Hồ còn hiện lên trong thơ Tố Hữu như một tiên ông cao đẹp :
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non...

Hình ảnh Bác lồng lộng, sánh ngang cùng trời đất, vũ trụ bao la. Trong một bài thơ khác, bài « Bác ơi », Tố Hữu cũng một lần nữa khẳng định điều này :
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ lụa tặng già
Thăm Bác nơi chiến khu vào một sáng tháng năm lịch sử, Tố Hữu xúc động nói về những cảm nhận và tình cảm của mình đối với Người. Nhà thơ tập trung khai thác hai khía cạnh tưởng như đối lập mà rất thống nhất trong con người của Bác. Đó là sự lớn lao, kỳ vĩ thiêng liêng với sự giản dị, gần gũi và ấp áp. Trong nét lớn lao, kỳ vĩ, Bác được ví như những gì trường cửu, rực rỡ nhất của thế gian này:
Hồ Chí Minh
Người ở khắp nơi nơi
Hồn biển lớn đón muôn lời thủ thỉ
……………………………
Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời.
…………………….
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
Nhưng bên cạnh đó, đối với mỗi người dân, Bác là những gì yêu thương nhất, gần gũi và ruột thịt nhất. Cho nên, bên cạnh Người, dẫu cảm nhận được những lớn lao, vĩ đại, mỗi con người vẫn không bị choáng ngợp, bé nhỏ đi, mà trở nên vững vàng hơn như được Bác tiếp thêm sức mạnh. Nói về Bác, Tố Hữu hay dùng những từ chỉ mỗi quan hệ gia đình để tô đậm thêm sự thân yêu:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
…………………………….
Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!
Giọng của Người, không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
HÌnh ảnh một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã hóa thân thành nhiều cuộc đời, nhiều con người giản dị cụ thể xung quanh… Điều đó cho thấy Tố Hữu đã nắm bắt được nét phong cách nổi bật của Hồ Chí Minh. Người không bao giờ tách mình khỏi quần chúng nhân dân. Người luôn quan tâm đến từng mảnh đời bé nhỏ và bất hạnh nhất. Người luôn đứng lẫn vào số đông quần chúng nhân dân, để lắng nghe, thấu hiểu, và để hành động vì nhân dân. Chính điều này đã khiến hình ảnh Bác trở nên cao đẹp hơn bao giờ hết trong lòng nhân dân.
Bài thơ “Sáng tháng năm” là một trong nhiều bài thơ hay của Tố Hữu viết về Bác Hồ. Bài thơ đã diễn tả thành công hình ảnh của vị cha già dân tộc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh tình yêu dành cho Bác, Tố Hữu còn có những dự cảm thật chính xác về công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam:
Bác bảo đi, là đi
Bác bảo thắng, là thắng
Việt Nam có Bác Hồ
Thế giới có Xta-lin
Việt Nam phải tự do
Thế giới phải hoà bình!
Đã rất nhiều năm trôi qua, nhưng bài thơ “Sáng tháng năm” của Tố Hữu vẫn là một bông hoa đẹp, dâng mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu mỗi dịp tháng năm tươi đẹp!

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Quê hương. Giang Nam.(Ngâm thơ Vũ Kim Dung)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.

quê hương
Tác giả: Giang Nam
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Có những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh bờ ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên có ai ngờ!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...

Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Tôi lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Rồi hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động cách mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Bài thơ là câu chuyện tình từ thủa tuổi thơ của hai người hàng xóm. Đôi trẻ lớn lên, tình yêu trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kỳ kháng chiến. Từ buổi “Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc” đến “Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi” để rồi cuối cùng “Hôm nay nhận được tin em”. Song, dù em mất nhưng tình yêu không mất bởi tâm hồn và thể xác em đã hóa thân vào với đất nước, quê hương….
Bài thơ được tác giả viết năm 1960 khi nhận được thông tin vợ và con ông bị giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Song thật may đây là nhầm lẫn. Vợ và con ông đã được thả năm 1962 do địch không tìm ra căn cứ để kết tội. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Nhà thơ Giang Nam.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, Nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông lại ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã.

thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
thông tin về xuất xứ bài thơ.

1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.

2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.

Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.

Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.

Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…


Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Qua đèo Ngang( bà huyện Thanh Quan- Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Bài Qua đèo Ngang( bà huyện Thanh Quan- Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết)
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Qua Đèo Ngang
Tác giả: Bà Huyện Thanh Quan
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
"Qua đèo Ngang" là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ở thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam.Với phong cách trang nhã, bài thơ "Qua đèo ngang" cho thấy cảnh tượng Đèo ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thê hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả.
Trên đường vào Phú Xuân…, bước tới đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà huyện Thanh Quan sáng tác bài "Qua đèo Ngang". Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà thương nước của một người con hiến mình cho tổ quốc. Lần đầu nữ sĩ "bước tới Đèo Ngang", đứng dưới chân con đèo "đệ nhất hùng quan" này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng bình, vào thời điểm "bóng xế tà", lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã "tà", đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm "tà" cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ "chen", vần lưng: "đá" – "lá", vần chân: "tà" – "hoa", thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước.
Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?
Câu thơ thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào về non sông đất trời Việt Nam. Thiên nhiên trên quê hương ta có vẻ đẹp mộng mơ, chan hoà sức sống. Chính vì vậy, thiên nhiên luôn là dề tài bất tận của thi ca. Lúc thì lung linh, huyền diệu như trong mộng, lúc lại rực rỡ, kiêu sa tựa ánh mặt trời. Nhưng đồng thời, cảnh vật cũng sẽ nhuốm màu ảm đạm, thê lương dưới ánh mắt của các nhà thơ mang một tâm sự u hoài khi sáng tác một bài thơ tức cảnh. Vì thế, đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Câu thơ thật thích hợp khi ta liên tưởng đến bà Huyện Thanh Quan với bài thơ Qua đèo Ngang.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà.

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Phải hiểu rõ và yêu quý bài thơ mới thấy hết được tài năng cũng như tư tưởng luôn hướng về quê hương đất nước và gia đình của bà Huyện Thanh Quan. Ai dám bảo rằng người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có được những tình cảm thiêng liêng đó?

Chỉ mới đọc hai câu đầu của bài thơ thôi:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

là ta đã nhận ngay ra một nỗi buồn xa vắng.

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã. Ca dao cũng đã có câu:

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Thế mới biết, những tình cảm cao quý của mỗi người dường như gặp nhau ở một điểm. Đó chính là thời gian. Mà quãng thời gian thích hợp nhất để bộc lộ sự nhớ nhung khắc khoải chính là lúc chiều về. Ở bài thơ Qua đèo Ngang, tác giả bỗng dâng lên cảm xúc man mác khi bà bắt gặp ánh hoàng hôn bao phủ cảnh vật ở Hoành Sơn. Cảnh vật đã buồn lại trống vắng hơn bởi điệp từ chen ở câu thứ hai. Nó làm cho người đọc thơ bỗng cảm nhận được sự hoang vắng của đèo Ngang lúc chiều tà, bóng xế mặc dù nơi đây rất đẹp: có cỏ cây, đá, lá, hoa. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt để tìm kiếm một chút gì gọi là sự sống linh động. Và kìa, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Câu thơ gợi cho tả hình dung trong ánh hoàng hôn lạnh lẽo, mấy người tiều phu đang đốn củi, mấy quán chợ xiêu xiêu trong gió. Đảo ngữ đưa hai từ láy lom khom, lác đác lên đầu câu đã được tác giả sử dụng như nhấn mạnh thêm sự u hoài ở đây. Nhà thơ đi tìm một sự sống nhưng sự sống đó lại làm cho cảnh vật héo hắt, buồn bã hơn, xa vắng hơn. Sự đối lập vốn có của hai câu thực khiến cho cảnh trên sông, dưới núi thêm rời rạc, thưa thớt. Từ vài, mấy như càng nói rõ thêm sự vắng vẻ ở nơi này. Trong sự hiu quạnh đó, bỗng nhiên vẳng lên tiếng kêu đều đều, man mác của loài chim quốc quốc, chim gia gia trong bóng hoàng hôn đang buông xuống.

Từ ghép đau lòng, mỏi miệng khiến cho ta có cám giác tha thiết, ray rứt. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?



Sự song song về ý, về lời của hai câu thơ trong phần luận của bài thơ này nhằm nhấn mạnh tình cảm của bà Huyện Thanh Quan đối với Tổ quốc, gia đình trước cảnh thật là khéo léo và tài tình. Từ thực tại của xã hội đương đời mà bà đang sống cho đến cảnh thực của đèo Ngang đã khiến cho tác giả sực nhớ đến mình và tâm sự:

Dừng chân dứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu kết của bài, ta cảm thấy nhà thơ có tâm sự u hoài về quá khứ. Dừng lại và quan sát bà chỉ thấy: trời, non, nước. Vũ trụ thật rộng lớn, xung quanh bà là cả một bầu trời với núi, với sông khiến cho con người cảm thấy mình bé nhỏ lại, đơn độc, trống vắng, ở đây, chỉ có một mình bà ta với ta, lại thêm mảnh tình riêng cho nước, cho nhà trong huyết quản đã làm cho cõi lòng nhà thơ như tê tái. Vũ trụ bao la quá! Con người cô đơn quá! Tất cả lại được diễn tả dưới ngòi bút tài hoa của người nữ sĩ nên bài thơ là bức tranh đặc sắc. Từ ta với. ta như một minh chứng cho nghệ thuật điêu luyện trong sáng tác thơ ca của bà Huyện Thanh Quan. Bởi vì cũng ta với ta nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại nói:

Bác đến chơi đây ta với ta

lại là sự kết hợp của hai người: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Còn bà Huyện lại:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

đã tô đậm thêm sự lẻ loi, đơn chiếc của mình. Qua câu thơ, ta như cảm nhận sâu sắc hơn nỗi niềm tâm sự của tác giả trưức cảnh tình quê hương..ỗ

Phân tích bài thơ rồi, em hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình cảm của một nhà thơ nữ trong xã hội thời xưa, giúp em thêm yêu quý đất nước và con người Việt Nam. Em cảm thấy vững vàng trong tư tưởng và có những suy nghĩ tích cực hơn góp phần xây dựng quê hương đất nước Việt Nam thêm giàu đẹp, để giữ mãi được những dấu tích mà người xưa để lại như gửi gắm, nhắc nhở và trao gởi cho chúng em.

Từ xưa đến nay, có nhiều nhà thơ tả cảnh đèo Ngang nhưng không ai thành công bằng bà Huyện Thanh Quan vì trong tác phẩm của bà có cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Cả bài thơ được gieo vần "a" như chính tâm sự hoài cổ của tác giả. Chúng ta không tìm thấy dù chỉ một chút gọi là sự ồn ào trong cách miêu tả. Tất cả chỉ là sự trầm lắng, mênh mang như chính tâm sự của tác giả.

Lời thơ nghe xao xuyến, bồi hồi làm cho người đọc xúc động cũng chính là những cảm xúc sâu lắng của bà Huyện Thanh Quan khi đặt chân lên đèo Ngang trong khung cảnh miền núi khi hoàng hôn buông xuống. Cũng những cảm xúc ấy, ta sẽ gặp lại khi đọc bài Chiều hôm nhớ nhà của bà với câu:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa, vẳng trống dồn.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ xưa đã cho ta những phút giây có được tình cảm tốt đẹp xuất phát từ đáy tâm hồn, từ sự rung cảm thật sự, người đời đã đặt một tên làng, một tên đường: Bà Huyện Thanh Quan để mãi mãi ghi nhớ tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của người,nữ sĩ đối với non sông, đất nước một thời đã qua.



Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

Những năm anh đi .Tuệ Sĩ (Ngâm thơ giọng ngâm của Bạch Hạc)


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Những năm anh đi .Tuệ Sĩ (Ngâm thơ giọng ngâm của Bạch Hạc)
Chúc quý vị có những phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Những Năm Anh Đi
Tác giả: Tuệ Sỹ
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng,
Nhìn Quê hương qua chứng tích điêu tàn.
Triều đông hải vẫn thì thầm cát trắng:
Truyện tình người và nhịp thở của Trường sơn.

Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị,
Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng.
Tay anh vói trời cao chim chiều rủ rỉ,
Ðời lênh đên thu cánh nhỏ bên đường.

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối,
Tìm Quê hương trên vết máu giữa đồng hoang.
Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi,
Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu,
Trên vai gầy từ thủa dựng Quê hương;
Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu,
Bản tình ca vô tận của Ðông phương.

Và ngày ấy anh trở về phố cũ,
Giữa con đường còn rợp khói tang thương,
Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.
Vài nết về tác giả:Cuộc đời của Thượng Tọa Tuệ Sỹ, thật tương tự cuộc đời vua Trần Nhân Tông (1258-1308) thấm nhuần Phật Giáo ngay từ thuở thiếu thời, tham hiểu Thiền định dưới sự dạy bảo của Tuệ Trung Thượng Sĩ (bút hiệu Tuệ Sỹ Thầy tự đặt lấy để kính ngưỡng Ngài là Thiền Sư nhà Trần). Năm 36 tuổi, Điều Ngự Giác Hoàng nhường ngôi cho Trần Anh Tông ; xuất gia năm 41 tuổi và viên tịch tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử năm 1308, hưởng thọ 51 tuổi…

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Nhật ký trong tù .Ngâm thơ NSUT Trần thị Tuyết


Tiếng thơ viet nam Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Nhật ký trong tù Ngâm thơ NSUT Trần thị Tuyết.
Chúc quý vị có nhứng phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Nhật ký trong tù (nguyên văn chữ Hán: 獄中日記 - Hán-Việt: Ngục trung nhật ký) là một tác phẩm văn học gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943[1]. Tập thơ chỉ là một quyển sổ tay nhỏ, bìa xanh đã bạc màu, có ghi bốn chữ "Ngục trung nhật ký" (tức Nhật ký trong tù) kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích; bên trong là những bài thơ chữ Hán và một số ghi chép. Từ năm 1960, tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt, được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay đã được xuất bản nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật... Ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm "Ngục trung Nhật ký"
Tập thơ "Nhật ký trong tù" đã được một số nhà phê bình đánh giá. Theo BBC, không chỉ các tác giả Việt Nam và phương Tây mà ngay chính các nhân vật của Trung Quốc - quê hương của thơ chữ Hán - như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng, Hoàng Tranh đều ca ngợi tập thơ này..

Xuân Diệu có viết: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễ là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó... Người xưa nói: "Đối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau... Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc của Lê nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường..

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Thơ Nguyễn Duy


Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Thơ Nguyễn Duy.Chúc quý vị có nhứng phút giây thư giãn tại Tiếng thơ viet nam.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ...
Tác giả: Nguyễn Duy
Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò ... sung chát đào chua ...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta -- chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương

Saigon, Mùa thu 1986