Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

Mẹ tôi .Thơ Lưu Thế Quyền .Ngâm thơ Nghệ sĩ Vương Hà



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị :Mẹ tôi .Thơ Lưu Thế Quyền .Ngâm thơ Nghệ sĩ Vương Hà.

MẸ TÔI

Kính dâng Mẹ

--------------------------------Thơ: Lưu Thế Quyền



Con sinh ra giữa cuộc đời

Mẹ lo cả những bồi hồi giấc mơ

Thế mà con cũng chẳng ngờ

Gian truân đến vậy, bây giờ không đâu.



Chiêm mùa mấy bận mưa Ngâu

Mẹ teo tóp với nông sâu đất làng

Bay về mây trắng giăng ngang

Mẹ mang kim chỉ thời gian nối mùa.



Tháng đôi lần Mẹ lên chùa

Cầu mong con mãi vẫn chưa thấy gì

Mẹ ngồi nhẩm tính, có khi

Cơn mưa nào đến Mẹ đi một mình…



Thời gian thì cứ lặng thinh

Mẹ tôi vẫn ngắm bình minh đợi ngày.



( Rút trong tập TÌNH YÊU KHÔNG CÓ DẠI KHỜ -NXB VĂN HỌC -2014)


Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Lỡ bước sang ngang(trích thơ Nguyễn Bính) Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết



Xin trân trọng giới thiệu tới quý vị : Lỡ bước sang ngang(trích thơ Nguyễn Bính) Ngâm thơ NSUT Trần Thị Tuyết.

 Em ơi! em ở lại nhà

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương

Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi một bước trăm đường xót xa

Cậy em, em ở lại nhà

Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương



Hôm nay xác pháo đầy đường

Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng

Chuyến này chị bước sang ngang

Là tan vỡ giấc mộng vàng từ đây

Rượu hồng em uống cho say

Vui cùng chị một vài giây cuối cùng

Rồi đây sóng gió ngang sông

Đầy thuyền hận, chị lo không tới bờ

Miếu thiêng vụng kén người thờ

Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em

Đêm qua là trắng ba đêm

Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn

Một vai gánh lấy giang san...

Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương

Mắt quầng tóc rối tơ vương

Em còn cho chị lược gương làm gì!

Một lần này bước ra đi

Là không hẹn một lần về nữa đâu

Cách mấy mươi con sông sâu

Và trăm ngàn vạn nhịp cầu chênh vênh

Cũng là thôi cũng là đành

Sang sông lỡ bước riêng mình chị sao?

Tuổi son nhạt thắm phai đào

Đầy thuyền hận, có biết bao nhiêu người!

Em đừng khóc nữa em ơi!

Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em!

Một đi bảy nổi ba chìm

Trăm cay nghìn đắng con tim héo dần

Dù em thương chị mười phần

Cũng không ngăn nổi một lần chị đi

Chị tôi nước mắt đằm đìa

Chào hai họ để đi về nhà ai

Mẹ trông theo, mẹ thở dài

Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran

Tôi ra đứng tận đầu làng

Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa...

Trời mưa ướt áo làm gì?

Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng

Người ta pháo đỏ rượu hồng

Mà trên hồn chị một vòng hoa tang

Lần đầu chị bước sang ngang

Tuổi son sông nước đò giang chưa tường

Ở nhà em nhớ mẹ thương

Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ

Mẹ ngồi bên cửi xe tơ

Thời thường nhắc: "- Chị mày giờ ra sao?"

Chị bây giờ... nói thế nào?

Bướm tiên khi đã lạc vào vườn hoang

Chị từ lỡ bước sang ngang

Trời dông bão giữa tràng giang lật thuyền

Xuôi dòng nước chảy liên miên

Đưa thân thế chị tới miền đau thương

Mười năm gối hận bên giường

Mười năm nước mắt bữa thường thay canh

Mười năm đưa đám một mình

Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên

Mười năm lòng lạnh như tiền

Tim đi hết máu mà duyên không về

Nhưng em ơi! một đêm hè

Hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn

Dừng chân trên bến sông buồn

Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang

Đoái thương thân chị lỡ làng

Đoái thương phận chị dở dang những ngày

Rồi... rồi chị nói sao đây?

Em ơi! nói nhỏ câu này với em...

Thế rồi máu trở về tim

Duyên làm lành chị duyên tìm về môi

Chị nay lòng ấm lại rồi

Mối tình chết đã có người hồi sinh

Chị từ dan díu với tình

Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng

Tim ai khắc một chữ "nàng"

Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo

Nhưng yêu chỉ để mà yêu

Chị còn dám ước một điều gì hơn ...

Chị giờ sống cũng bằng không

Coi như chị đã ngang sông đắm đò.

      Nguyễn Bính (1918-1966) làm thơ từ năm 13 tuổi, bài thơ đầu tiên của ông được đăng báo là bài "Cô hái mơ". Năm 1937, Nguyễn Bính đã được Tự lực văn đoàn trao giải thưởng cho tập thơ "Tâm hồn tôi" của ông. Trong khoảng thời gian ba năm, ông đã cho ra đời 7 tập thơ như "Tâm hồn tôi" (1940), "Hương cố nhân (1941)" "Người con gái ở lầu hoa" (1942), "Mười hai bến nước" (1942), "Mây Tần" (1942) và tác phẩm được chú ý nhất là "Lỡ bước sang ngang" (1939)…


Màu tím hoa sim. Ngâm thơ. (Thơ Hữu Loan)



Nàng
có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh



Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới



Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê...



Nhưng không chết

người trai khói lửa

Mà chết

người gái nhỏ hậu phương

Tôi về

không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

thành bình hương

tàn lạnh vây quanh



Tóc nàng xanh xanh

ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

không được nghe nhau nói

không được trông nhau một lần



Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

một mình đèn khuya

bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

ngày xưa...



Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về

cỏ vàng chân mộ chí



Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau

Chiều hoang tím có chiều hoang biết

Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm

Tím tình ơi lệ ứa

Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành

Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn

Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím

Tôi ví vọng về đâu

Tôi với vọng về đâu

Áo anh nát chỉ dù lâu...
                                                (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
        Bài thơ này có nhiều dị bản truyền tụng khác nhau, đây đã được xác nhận là bản
gốc. Bài thơ này đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc như Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh
Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân...
         Vợ tác giả tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, là con gái cụ Lê Đỗ Kỳ. Lê Đỗ Kỳ cùng
công tác tại Uỷ ban tỉnh Thanh Hoá sau Cách mạng tháng Tám với Hữu Loan. Cụ Kỳ
nguyên là Chánh Thanh tra Lâm nghiệp toàn Đông Dương. Cụ Kỳ có nhiều con trai
là sỹ quan quân đội Nhân dân VN nổi tiếng: Con trai cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh
tại Điện Biên Phủ 5 tiếng đồng hồ trước khi quân ta cắm cờ trên sở chỉ huy của
Pháp. Tiếp đó là Lê Đỗ Nguyên, tức Trung tướng Hồng Cư. Em ông Cư là Lê Đỗ An,
tức Nguyễn Tiên Phong, sau là Bí thư Trung ương Đoàn TNCS HCM. Em ông Nguyên là
Đại tá Lê Đỗ Thái. Hai ông Hồng Cư và Lê Đỗ Thái hiện sống ở Hà Nội và đều lấy
con gái GS. Đặng Thai Mai.
                                                                                  Nguồn: Màu tím hoa sim, NXB Văn học, 1990
         Đến nay, Màu tím hoa sim được xem là một trong những
bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi
một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít
độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ.
         Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu
thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu
Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một
chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những
qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi
trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên
60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công
bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: “Tôi hát trong màu hoa.
Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu”
chứ không có
thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...”
ở cuối bài như sau này.
         So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy
ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến
người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm
vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có
những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm
quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng
biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim
trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay
"nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình.
          Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối.
Các anh của "nàng", theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực
ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi
Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên
Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn
biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn
nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má
tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”
. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác
bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: “ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một
người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm
chiến tranh”
. Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận.
                                                                                                             Nguồn: báo Thanh Niên